VIỆT NAM: NỖI ĐAU CỦA MỘT DÂN TỘC BẤT HẠNH
Trên toàn bộ quả Địa cầu có gần 200 quốc gia khác nhau, nhưng chỉ có một mình Việt Nam là dùng chữ ĐỒNG BÀO (chung một bào thai) để gọi người dân trong nước. Chữ đồng bào bắt nguồn từ câu chuyện truyền thuyết về nguồn gốc dân Việt, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sanh ra. Huyền thoại cho rằng bà Âu Cơ sanh ra 100 cái trứng rồi từ đó nở ra 100 người con. Chữ đồng bào như vậy có nghĩa là anh em cùng chung một lòng mẹ, một bào thai mà sinh ra.
Trong tất cả các mối quan hệ của đời sống nầy thì mối quan hệ huyết thống từ cùng một cha một mẹ là gần gũi nhất, mật thiết nhất (ngoại trừ mối quan hệ vợ chồng trong hôn nhân). Vì vậy khi ngôn ngữ Việt Nam dùng chữ đồng bào để mô tả về người dân trong nước thì điều đó là đặc biệt nhất, độc nhất vô nhị trên toàn thế giới, và đáng lẽ người Việt phải đối xử với nhau tương xứng như từ ngữ mà mình xử dụng suốt mấy ngàn năm nay.
Nhưng đáng buồn thay, nỗi hổ thẹn lớn nhất của Việt Nam cũng từ chữ nầy mà ra, vì phần lớn dân Việt Nam không hề có chút xót thương nào đối với nhau như điều đáng phải có. Một số đọc giả khi xem đến các hàng chữ nầy có thể sẽ không đồng ý, nhưng xin kiên nhẫn một chút để thấy điều mà chúng tôi đang trình bày tại đây.
Nếu đã gọi nhau là đồng bào, nghĩa là anh em chung một nhà, chung một cha một mẹ thì người Việt Nam đáng phải nên mang tâm tình nầy để đối xử với nhau, và nếu điều đó thật sự đã xãy ra suốt chiều dài lịch sữ của dân tộc thì có lẽ Việt Nam đã trở nên nước hùng cường và đáng trọng đứng đầu cả thế giới.
Nhưng người dân Việt Nam đã không làm được điều đó mà trái lại còn hãm hại nhau, thiếu lòng thương xót đến độ trở nên hận thù, chém giết lẫn nhau suốt hàng ngàn năm, nhất là trong cuộc chiến ý thức hệ tại Việt Nam từ năm 1954 cho đến 1975 và còn tiếp diễn mãi đến ngày nay giữa đẳng cấp thống trị của chủ nghĩa Cộng sản và người dân bình thường trong xã hội.
Chúng tôi muốn đề cập trước hết đến những kẻ đang thống trị Việt Nam hiện nay rồi lần hồi sẽ nói đến cách đối xử của dân Việt đối với nhau, vì theo lời của người xưa thì nước bao giờ cũng chảy xuôi chớ không thể chảy ngược, điều đó có nghĩa là mọi trách nhiệm liên quan đến những điều tệ hại trong quốc gia phải bắt đầu từ người lãnh đạo.
Những người Cộng sản Việt Nam mặc dầu dùng chữ đồng bào để lớn tiếng hô hào việc đoàn kết thống nhất trong nước, nhưng thực chất vẫn là để củng cố duy trì địa vị quyền lực của họ, chớ không hề có một chút thương xót nào đối với người mà họ gọi là đồng bào. Chúng tôi xin lần lượt đưa ra những việc làm của họ để cho thấy sự nhẫn tâm và dối trá của những kẻ lãnh đạo không hề biết thương xót đến đồng bào trong nước là thế nào:
– Chủ nghĩa xã hội hay Cộng sản là loại chủ nghĩa xây dựng trên lòng ganh tỵ và sự cướp đoạt bằng vũ lực. Chiêu bài chính yếu của chủ nghĩa Cộng sản là lấy của người giàu chia cho người nghèo, và nhờ chiêu bài tuyên truyền như vậy mà họ đã dụ dỗ được rất nhiều người nghe theo để làm vật hy sinh cho tham vọng thống trị của những kẻ cầm đầu. Suốt chiều dài của lịch sử thế giới từ ngày chủ nghĩa Cộng sản ra đời cho đến nay, có rất nhiều những kẻ bất tài, thất học, biếng nhác, gian dối, hung dữ tham gia vào đoàn thể những người Cộng sản. Ấy là bởi vì họ nghĩ rằng với chủ nghĩa nầy họ không cần phải học tập chuyên cần, làm việc siêng năng, thi thố tài lực một cách hết mình để được thăng tiến và sung túc trong xã hội, nhưng chỉ cần cướp đoạt của cải, tài sản của kẻ khác thì cũng đã đủ để giàu có, vinh thân phì gia, và chủ nghĩa Cộng sản là tấm bình phong che dấu cho âm mưu kiểu kẻ cướp của họ.
Chính vì quan điểm và thủ đoạn đó mà Cộng sản đã hai lần (nói theo cách tổng quát) cướp đoạt tài sản của đồng bào một cách công khai trên bình diện quốc gia, đó là lần đấu tố địa chủ tại miền Bắc vào năm 1954-55 và đánh tư sản tại Miền Nam sau năm 1975.
Các kẻ Cộng sản đã dùng từ ngữ để tuyên truyền mỵ dân khi gọi những kẻ bị họ cướp bóc công khai là địa chủ và tư sản, nhưng phần lớn những thành phần ấy đều là người chịu khó làm lụng buôn bán nhiều đời để được sung túc giàu có. Người dân miền Nam đã có kinh nghiệm và hiểu rõ về sự việc nầy hơn ai hết, nhất là điều đó xãy ra mới chỉ vài mươi năm trước mà thôi.
Một điều khác nữa mà chúng ta có thể thấy được sự lừa dối và gian ác của các kẻ Cộng sản trong việc cướp tài sản của đồng bào, là sau khi đấu tố địa chủ và đánh tư sản xong thì người dân nghèo trong nước vẫn nghèo, chỉ có các đảng viên và cán bộ cao cấp của đảng Cộng sản giàu lên mà thôi. Cái chiêu bài lấy của người giàu chia cho người nghèo chỉ được dùng để dẫn dụ những kẻ tham lam mù quáng theo họ, để hy sinh, để làm đá lót đường, nhưng khi cướp được tài sản của đồng bào thì chỉ có các kẻ cầm đầu hưởng mà thôi.
Điều mà chúng tôi vừa trình bày ở trên đã được nhân dân miền Nam biết rất rõ sau năm 1975. Khi Cộng sản xâm chiếm được miền Nam và sau khi đánh tư sản thì những năm sau đó nhân dân miền Nam rất nghèo đói, phải ăn cơm độn bằng khoai lang, khoai mì, thậm chí nhiều lúc còn không có gạo để ăn, phải ăn bo bo thay cơm. Số của cải khổng lồ của đồng bào miền Nam được đưa hết vào túi của các kẻ lãnh đạo đảng Cộng sản. Điều ấy rõ ràng đến nỗi tờ báo Time của Hoa-kỳ đã từng đăng tải bài nghiên cứu về giới cầm quyền tại Hà Nội thời bấy giờ và gọi họ là những Tư sản đỏ. Tờ báo còn cho biết thêm việc họ đều có các tài khoản ngân hàng tại Thụy sĩ.
Thực tế ấy là điều mà người dân Việt Nam trong nước có thể thấy được một cách rõ ràng ngày hôm nay. Các kẻ Cộng sản tiến hành đánh tư sản để cướp của người giàu cho chính bản thân họ để rồi sau đó chính họ trở thành các tay tư sản giống như những người mà họ từng lên án. Vì vậy tất cả các khẩu hiệu tuyên truyền của Cộng sản chỉ là sự gian dối để lừa gạt đồng bào trong nước cho tham vọng cướp đoạt tài sản của người khác một cách công khai mà thôi.
Sau năm 1975 tại niềm Nam đã có biết bao nhiêu trường hợp đau thương mà trong đó hàng chục ngàn người suốt cả cuộc đời lao khổ, đổ mồ hôi sôi nước mắt để tạo dựng cơ nghiệp với hy vọng cho con cháu sau nầy được ấm no sung túc đã bị Cộng sản cướp đoạt trắng tay cũng với cái chiêu bài lấy của người giàu chia cho người nghèo.
Đó cũng là lý do mà từ trước đến nay thế giới vẫn gọi chủ nghĩa Cộng sản là băng đảng của kẻ cướp, và đảng Cộng sản Việt Nam là những kẻ nhẫn tâm nhất vì cướp lột chính đồng bào của mình, tức là anh em trong cùng một gia đình mà ra.
Người dân Nga-sô, mặc dầu chưa bao giờ dùng chữ đồng bào để gọi nhân dân trong nước, nhưng lại có tình yêu đối với nhau hơn là người Việt Nam. Sau hơn 72 năm đau khổ dưới chế độ độc tài của đảng Cộng sản Nga thì họ đã quyết định từ bỏ con đường đó để cứu cả dân tộc ra khỏi cảnh bất công của chủ nghĩa xã hội và ngày nay đã có đời sống dễ thở hơn trước. Nhưng tại Việt Nam thì vẫn còn có nhiều người cổ vũ cho chế độ Cộng sản đang khi dân chúng lầm than dưới chế độ tham nhũng và bất công của chính quyền Hà Nội.
(còn tiếp)