THÁNH KINH GIẢI LUẬN / 2Cô-rinh-tô 5: 7

LỢI ÍCH CỦA ĐỨC TIN

Kinh thánh: 2Cô-rinh-tô 5: 6-10

Câu gốc: 2CÔ-RINH-TÔ 5: 7 – Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải bởi mắt thấy.

Sau khi chúng ta đã cùng nhau suy gẫm qua về sự cần thiết của đức tin thì hôm nay chúng ta sẽ suy gẫm đến những lợi ích của đức tin thật. Tôi muốn nhấn mạnh đến chữ thật ở đây để giúp cho quý Hội thánh thấy rằng đức tin của Cơ-đốc-nhân phải đặt hoàn toàn trên lẽ thật của Kinh thánh chớ không phải là sự tin Chúa theo kiểu gia nhập vào một tôn giáo và nghe ai nói gì cũng tin. Những người theo các tôn giáo của trần gian thì thường làm như vậy và nếu không cẩn thận thì Cơ-đốc-nhân cũng bị va vấp vào thói quen đó mà cứ tưởng mình là đã có đức tin thật trong Chúa rồi. Có đức tin và có đức tin thật là hai điều khác nhau, hoặc nói cho thật chính xác là ở hai mức độ khác nhau mà Cơ-đốc-nhân cần phải nhận biết để có thể đạt đến bậc trọn vẹn theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhưng đó là điều mà tôi sẽ trình bày thêm sau nầy, còn sáng hôm nay thì chúng ta sẽ cùng nhau suy nghĩ đến những lợi ích thực tiễn của việc có đức tin thật trong Chúa.

Như điều mà chúng ta đã cùng nhau suy gẫm qua thì quý Hội thánh đã biết rằng niềm tin là nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của con người, và niềm tin cũng quan trọng như là những nhu cầu khác như ăn uống, ngủ nghỉ và hít thở dưỡng khí để sống. Nếu không có niềm tin thì con người sẽ gặp nguy hiểm cho bản thân và có thể đi đến chỗ tử vong cả về mặt thuộc thể và thuộc linh. Vì vậy mà con người luôn luôn cần phải thỏa mãn nhu cầu về niềm tin cũng giống như việc cần phải thỏa mãn những nhu cầu khác. Chúng ta sẽ dùng một số thí dụ điển hình về nhu cầu ăn uống để từ đó có thể thấy được tầm quan trọng của nhu cầu niềm tin trong đời sống của con người là như thế nào và để có thể hiểu rằng việc thỏa mãn nhu cầu niềm tin là rất quan trọng để con người có thể sinh tồn và được nhiều lợi ích cho bản thân.

Chúng ta biết là con người cần phải ăn uống để cơ thể được sống còn và có thể hoạt động được. Bởi lẽ đó mà con người rất sợ bị đói vì nếu không được ăn trong nhiều ngày thì người ta sẽ chết. Vì vậy mà khi đói thì người ta ăn hầu như đủ mọi thứ để mong được sinh tồn, chẳng hạn như tại Bắc Triều tiên thì dân chúng nhiều lúc phải ăn cỏ ngoài đồng để sống vì không có đủ lương thực cho toàn dân, chỉ có giới cầm quyền độc tài là mập mạp mà thôi. Đó là theo lời kể lại của những người đào thoát đến Nam Triều tiên. Còn tại các quốc gia độc tài khác thì người nghèo đói ăn cả những thực phẩm đã bị hư thối hoặc đã bị quăng vào thùng rác rồi, hoặc là đứng chờ tại các tiệm ăn để mong được húp nước lèo còn sót lại trong tô của thực khách. Sự đói khổ như vậy của nhiều người thì chúng ta đã từng tận mắt chứng kiến mặc dầu những kẻ độc tài thì lúc nào cũng khoe khoang là đất nước mà họ đang cai trị là thiên đường ở trên đất.

Đề cập đến những thực trạng như vậy để chúng ta có thể thấy rằng vì sự ăn uống là một trong những nhu cầu của đời sống cho nên người ta cần phải thỏa mãn nó, tức là phải ăn cho no và uống cho khỏi khát. Cũng một thể ấy, vì niềm tin cũng là nhu cầu của đời sống con người nên người ta cần phải tin vào một điều nào đó hoặc một lý tưởng, một tôn giáo, ngay cả việc tin vào một lãnh tụ đã chết để thỏa mãn sự đòi hỏi cần phải có niềm tin trong đời sống họ. Nói cách khác là người ta cần phải tin, bất kể điều đó là điều gì, hầu có thể sống còn, nhất là về mặt tinh thần. Bởi vậy cho nên chúng ta thấy rằng mặc dầu một số người tuyên bố rằng họ không tin vào thần thánh nhưng thật ra không phải là họ không có niềm tin đâu, nhưng mà họ lấy một chủ thuyết hoặc một lý tưởng nào đó để thay thế cho tôn giáo, chớ họ không phải là người hoàn toàn không có niềm tin nào cả, chẳng hạn như những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Tôi xin đề cập đến số người ấy một cách hơi chỉ tiết một chút để cho quý Hội thánh có thể thấy được là con người luôn luôn tìm cho mình niềm tin nào đó, hoặc là trong phương diện nầy hoặc là trong phương diện khác, để thỏa mãn nhu cầu về niềm tin, ngay cả đối với những người tuyên bố rằng họ không có tôn giáo hoặc không có thần tượng, chẳng hạn như những người theo chủ nghĩa bảo vệ môi trường. Đối với những người ấy thì môi trường đã trở thành thần tượng tôn giáo của họ và họ vì thần tượng môi trường đó mà sẳn sàng giết người để bảo vệ cây xanh. Khi xem xét đến những cuộc cháy rừng khủng khiếp ở tại California thì chúng ta mới thấy được sự đam mê thần tượng môi trường của họ là như thế nào. Trong những thập niên gần đây thì giới bảo vệ môi trường tại California đã được chính phủ tiểu bang ủng hộ để làm áp lực với các chuyên gia chăm sóc rừng là không được đốn ngã cây cối, bất kể là các cây ấy ở trong tình trạng nào. Theo các chuyên gia cho biết thì mỗi một năm họ phải đi đốn cây, nhất là những cây già yếu cằn cõi và khô héo nhằm để tạo khoảng trống an toàn giữa các cây với nhau hầu ngăn chận hoặc giảm thiểu nạn cháy rừng. Vì những cây cối già nua và khô héo như vậy là mồi dẫn lửa rất nhạy nếu có tia sét đánh vào hoặc nếu những người đi cắm trại bất cẩn để tàn lửa bắt đến các cây ấy. Nhưng những thập niên gần đây thì giới bảo vệ môi trường không cho phép họ thực hiện công tác dọn rừng với lý do rằng rừng là tốt cho không khí của quả địa cầu và việc đốn cây còn sống, ngay cả khi cây ấy đã già và khô héo, là hành động tàn nhãn làm tổn thương đến sự sống của thực vật. Vì vậy mà các cánh rừng ở tại California đã trở thành những đống cũi khổng lồ chỉ chờ một ngày nóng bức, một mãnh ve chai nhỏ phản xạ ánh sáng mặt trời hoặc một tia sét hoặc một diêm quẹt là có thể bùng cháy không sao dập tắt được. Mặc dầu đã có hàng ngàn căn nhà và hàng chục người bị thiêu cháy trong những lần cháy rừng như vậy, kể cả sinh mạng của một số nhân viên chữa cháy nhưng giới bảo vệ môi trường vẫn khăng khăng ngăn cấm các chuyên gia không được dọn rừng cho quang đãng và an toàn. Đối với những kẻ ấy mặc dầu họ tuyên bố rằng họ không có tôn giáo nhưng thật ra môi trường đã trở thành thần tượng của họ và dẫn họ đến chỗ cuồng tín một cách mù quáng. Tôi còn có thể trưng dẫn thêm nhiều thực tế nữa để giúp cho quý Hội thánh thấy rằng người ta luôn luôn tìm cách tin vào một điều nào đó để thỏa mãn nhu cầu về niềm tin trong bản thân họ, nhưng tôi chỉ xin kể ra một thực trạng như trên mà thôi vì chúng ta còn cần phải suy nghĩ nhiều đến các lợi ích của đức tin thật.

Như điều tôi đã đề cập đến thì người ta cần phải tin vào một điều nào đó để lấp đầy khoảng trống về niềm tin trong tâm trí họ cũng giống như việc người ta cần phải ăn để được no lòng, và khi đã no lòng rồi thì người ta không cần ăn thêm gì nữa. Đó là lẽ tự nhiên, cũng giống như một ly nước đã đầy thì không cần phải đổ thêm vào nữa. Khi nói như vậy thì chắc quý Hội thánh đã có thể nhận biết rằng Cơ-đốc-nhân chúng ta là những người may mắn hơn hết trong đời sống nầy vì chúng ta đã có đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ và nhờ đức tin ấy mà chúng ta được vui mừng, thỏa lòng. Đó là lợi ích thứ nhất của đức tin mà tôi ao ước được cùng suy gẫm với quý Hội thánh sáng hôm nay.

Đức tin trong Đức Chúa Jêsus đã giúp cho chúng ta no lòng đối với nhu cầu của niềm tin cho nên chúng ta không cần cũng như không bị ảnh hưởng bởi quan điểm và xu hướng của xã hội, cũng như tránh được những đam mê mà người ta hay mắc phải trong thế gian nầy. Chính bởi lẽ đó mà lời của Chúa trong Kinh thánh đã ví Ngài như một món ăn ngon và kêu gọi mọi người nếm thử, tức là thử có đức tin trong Chúa để có thể kinh nghiệm được sự sống trong Ngài ngọt ngào và tốt đẹp là như thế nào, như lời Kinh thánh đã được chép trong Thi thiên 34: 8.

THI THIÊN 34: 8 – Khá nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao! Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài!

Chúng ta thử suy nghĩ về hình ảnh của một người đã no thì sẽ hiểu được sự thỏa lòng mà Cơ-đốc-nhân có được khi đã có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus. Khi một người đã ăn no những thức ăn ngon thì người ấy không cần phải ăn thêm gì nữa, và dù cho người ta có dọn ra những thức ăn mới lạ trông có vẽ ngon lành thì người đã no bụng rồi cũng không thấy thèm ăn. Đó là kinh nghiệm mà chúng ta có thể biết được. Cũng một thể ấy, vì đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ là thức ăn quý báu nhất trần gian cho nhu cầu niềm tin trong tâm linh của chúng ta, cho nên sau khi đã có đức tin thật trong Ngài thì chúng ta không còn thèm muốn điều gì trong trần gian nầy nữa, tức là không còn bị hấp dẫn bởi những điều mà người ta vẫn theo đuổi, dầu đó là những lý tưởng có vẻ như cao đẹp bóng bẩy, hoặc là những thú vui thịnh hành trong xã hội, hoặc là những nhân vật nổi tiếng trong âm nhạc, trong văn nghệ, thể thao, phim ảnh hay trong chính trường. Những người không có đức tin nơi Đức Chúa Jêsus có thể xem những nhân vật ấy là thần tượng của họ để theo đuổi, để đam mê, để thán phục, để sắp hàng xin chữ ký hoặc để được một cái bắt tay, một câu chào hỏi, nhưng chúng ta thì không làm như vậy. Đối với chúng ta thì Đức Chúa Trời là trên hết và Đấng Christ là tất cả, như lời Kinh thánh đã khẳng định trong Cô-lô-se 3: 11.

CÔ-LÔ-SE 3: 11 – Tại đây không còn phân biệt người Gờ-réc hoặc người Giu-đa, người chịu cắt bì hoặc người không chịu cắt bì, người dã man hoặc người Sy-the, người tôi mọi hoặc người tự chủ; nhưng Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự.

Bởi lẽ đó mà khi chúng ta đã có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus thì chúng ta tránh được rất nhiều cám dỗ mà người khác vẫn bị mắc phải. Sự đầy đủ của Đấng Christ đã làm cho chúng ta thỏa mãn, no lòng và thế gian không thể cám dỗ được chúng ta với những điều hào nhoáng bóng bẩy của nó. Sự đầy đủ trọn vẹn trong Đức Chúa Jêsus đã được đề cập đến trong Ê-phê-sô 1: 23.

Ê-PHÊ-SÔ 1: 23 – Hội thánh là thân thể của Đấng Christ, tức là sự đầy đủ của Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài.

Bởi lẽ đó mà lời của Chúa mới dùng chữ Hội thánh để chỉ về cộng đồng của những người có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus, tức là những người nhờ sự thỏa lòng trong Chúa mà biện biệt mình ra khỏi thế gian để cố gắng sống một đời thánh khiết xứng đáng cho danh Chúa và cho Thiên đàng trong tương lai theo như sự đòi hỏi của Đức Chúa Trời mà đã có chép trong 1Tê-sa-lô-ni-ca 4: 7.

1TÊ-SA-LÔ-NI-CA 4: 7 – Bởi chưng Đức Chúa Trời chẳng gọi chúng ta đến sự ô uế đâu, bèn là sự nên thánh vậy.

Vì Đức Chúa Jêsus là Đấng gồm tóm mọi sự trong mọi loài cho nên khi chúng ta có đức tin thật trong Chúa thì chính mình sẽ tránh được tất cả những đam mê trong trần gian, tức là những đam mê mà con người thường hay mắc phải. Theo định nghĩa thông thường thì sự đam mê tức là tham muốn, ngưỡng mộ hoặc khao khát một điều nào đó và bởi thế mà bị ràng buộc bởi chính điều ấy, chẳng hạn như người ghiền hút thuốc lá thì sẽ cứ tiếp tục hút suốt đời mặc dầu biết rằng việc hút thuốc lá dẫn đến bệnh ung thư phổi và làm giảm tuổi thọ của chính họ cũng như có thể làm cho con cái trong gia đình bị ảnh hưởng bởi khói thuốc lá mà có các chứng bệnh về đường hô hấp, chẳng hạn như bệnh suyễn. Lời của Chúa cho biết là khi con người bị ràng buộc bởi một điều nào đó thì điều ấy chính là thần tượng của họ, như đã có chép trong 2Phi-e-rơ 2: 19.

2PHI–E-RƠ 2: 19 – Chúng nó hứa sự tự do cho người, mà chính mình thì làm tôi mọi sự hư nát; vì có sự chi đã thắng hơn người, thì người là tôi mọi sự đó.

Khi lời của Chúa dùng các chữ SỰ CHI ĐÃ THẮNG HƠN NGƯỜI thì điều đó có ý muốn nói đến việc người ta không có khả năng để dứt khoát khỏi những điều mà họ ham mê, chẳng hạn như sự mê rượu, ghiền thuốc lá, ghiền cờ bạc, say mê bóng sắc, phim ảnh, sùng bái thần tượng trong các lãnh vực giải trí, thể thao và những loại đam mê khác. Việc bị ràng buộc như vậy được Kinh thánh xem như là làm tôi mọi cho điều đó, có nghĩa là họ cứ phải thỏa mãn những đòi hỏi của nó bất kể hậu quả ra sao. Nói một cách cho dễ hiểu thì điều đó được dân gian gọi chung là tình trạng ghiền hoặc là nghiện. Nhưng đối với những Cơ-đốc-nhân có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus thì chúng ta chỉ có ghiền một Đấng mà thôi và sẳn sàng để mình bị ràng buộc bởi Đấng ấy, tức là việc bằng lòng làm tôi mọi Đức Chúa Trời và vâng phục sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus Christ, như lời Kinh thánh đã có bày tỏ trong các câu Kinh thánh sau đây:

1PHI-E-RƠ 2: 16 – Hãy ăn ở như người tự do, nhưng chớ dùng tự do làm cái màn che sự hung ác, song phải coi mình là tôi mọi Đức Chúa Trời.

1CÔ-RINH-TÔ 7: 22 – Vì kẻ tôi mọi được Chúa gọi, ấy là kẻ Chúa đã buông tha; cũng một lẽ ấy, ai đang tự do mà được gọi, thì làm tôi mọi của Đấng Christ.

RÔ-MA 6: 18 – Vậy, anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi.

Rõ ràng là lời của Chúa trong các câu Kinh thánh nầy cho chúng ta thấy rằng những Cơ-đốc-nhân có đức tin thật là những người sẳn lòng tự nguyện làm tôi mọi của Chúa và vui lòng để chính mình bị ràng buộc bởi luật pháp của Ngài thay vì bị ràng buộc bởi các đam mê của thế gian. Chúng ta thử so sánh hai tình trạng khác nhau của những ngày trước khi tin Chúa và sau khi đã tin nhận Ngài thì có thể thấy được lợi ích của đức tin thật là như thế nào. Trước ngày tin Chúa thì chúng ta ghiền nhiều thứ lắm. Có người thì ghiền ca nhạc, tức là ghiền nghe ca sĩ nầy hát hoặc ghiền nghe tác phẩm của nhạc sĩ kia, ghiền đến nỗi xem họ là thần tượng của mình và sẳn sàng chịu tốn nhiều tiền để nghe họ hát, nhưng đến khi đã có đức tin thật trong Chúa rồi thì chúng ta chỉ còn ghiền nghe Thánh ca để được tôn vinh Đức Chúa Trời mà thôi.

Trước ngày tin Chúa thì chúng ta mê coi đá banh hoặc các trận football của Mỹ, ghiền đến nỗi sẳn sàng bỏ nhóm để có thể xem được trận đấu từ đầu hiệp cho đến cuối hiệp, nhưng khi đã có đức tin thật trong Chúa rồi thì những trận thắng thua của đội nầy đội kia đối với chúng ta không còn quan trọng nữa.

Trước ngày tin Chúa thì trong chúng ta chắc có người ghiền hút thuộc lá, ghiền đến nỗi hút nối điếu, tức là hết điều nầy đến điếu kia, đến nỗi vàng hết cả móng tay của ngón tay trỏ và ngón tay giữa, thậm chí vàng cả hàm răng, hút đến nỗi gầy mòn, chắt chiu lại, da mặt xám xì, thậm chí còn bắt dế nhũi nữa, tức là lượm lại phần cuối của điếu thuốc đã tàn để tiếp tục hút cho hết, nhưng sau khi đã có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus rồi thì chúng ta bỏ hút thuốc lá, trên người không còn hôi mùi thuốc lá nữa, hàm răng trắng trẻo trở lại, da mặt hồng hào lên và các ngón tay cũng không còn vàng như ngày trước, đặc biệt là phổi được mạnh khỏe trở lại đến nỗi dầu cho bệnh dịch có xãy ra cũng không làm cho chúng ta sợ hãi là mình có thể bị khó thở.

Trước ngày tin Chúa thì trong chúng ta có người ghiền rượu đến nỗi mỗi khi chiều đến là nghe ngóng coi có đám nào rủ nhậu hay không, hoặc mỗi ngày phải uống một hai chai bia thì ăn cơm mới vô, hoặc đến cuối tuần là tụ tập nhậu nhẹt với bạn bè cho đến khuya đến sáng, tốn kém bao nhiêu cũng thây kệ, nhưng sau khi đã có đức tin thật nơi Chúa rồi thì chúng ta bỏ rượu, một giọt cũng không thèm uống và đến cuối tuần thì dẫn con cháu đi chơi chỗ nầy chỗ kia để gia đình được vui vẽ thay vì ngồi lại nhậu nhẹt say sưa.

Trước ngày tin Chúa thì có người trong chúng ta mê coi phim, nhất là phim bộ, đến nỗi thức coi cho đến 3, 4 giờ sáng rồi không có sức để đi làm, hoặc là cuối tuần thì cứ nằm coi phim mãi mà bỏ bê công việc nhà hoặc không ngó ngàng gì đến con cái. Nhưng sau khi đã có đức tin thật trong Chúa rồi thì chúng ta siêng năng đọc Kinh thánh hơn, thích suy gẫm lời của Chúa và dành nhiều thì giờ để ở riêng với Ngài trong sự cầu nguyện, cũng như biết lắng nghe và chuyện trò với con cái nhiều hơn, còn phim ảnh thì không thích coi nữa và thần tượng phim ảnh hoặc ca nhạc cũng không còn.

Đó là những lợi ích thực tiễn của việc có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus mà nhiều người trong chúng ta đã kinh nghiệm. Nếu phải nói đến việc nhờ có đức tin như vậy mà chúng ta đã bỏ được những đam mê khác nữa thì chắc là không đủ thì giờ để kể hết ra đây, nhưng tất cả chúng ta đều nhận biết rằng kể từ ngày mình có đức tin thật trong Chúa thì không còn bị ràng buộc bởi những đam mê đó nữa. Đức tin thật giúp cho chúng ta biết sống điều độ, chừng mực, giúp cho cơ thể chúng ta khỏe hơn, tinh thần thư giãn và vui vẽ hơn. Thoát được những đam mê đó cũng giúp cho chúng ta biết tiêu xài một cách đúng đắn hơn, mang lại lợi ích nhiều hơn cho con cái và gia đình. Nếu nói theo Kinh thánh thì đức tin thật đã giúp cho chúng ta biết làm tôi mọi của Đấng Christ để theo đuổi một đời sống mẫu mực thánh khiết hơn, chớ không còn làm tôi mọi cho những đam mê tham muốn tai hại như những ngày chưa tin nữa. Như vậy thì khi chúng ta biết đặt chính mình vào sự ràng buộc với Đấng Christ để làm tôi mọi cho Ngài theo tiêu chuẩn của Thiên đàng thì điều đó mang lại lợi ích trăm lần hơn là làm tôi mọi cho những đam mê của xác thịt và bản ngã. Bởi lẽ đó mà Cơ-đốc-nhân chúng ta cần phải cố gắng tìm kiếm làm sao cho chính mình có thể đạt đến mức độ đức tin thật trong Đấng Christ để nhờ đó mà được lợi ích trăm bề trong đời sống nầy.

Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời yêu thương con cái của Ngài lắm, yêu đến nỗi Chúa bằng lòng giáng sinh vào trong trần gian để chịu sỉ nhục và chịu chết cho chúng ta trên thập tự giá. Vì vậy mà tất cả những điều Chúa bảo chúng ta phải thực hiện và phải noi theo đều là bởi tình yêu bao la của Ngài đối với chúng ta và vì muốn chúng ta được ích lợi trăm bề. Chỉ khi nào Cơ-đốc-nhân hiểu được rõ ràng tình yêu của Chúa thì mới thấy được và hiểu được luật pháp của Ngài là tốt cho chúng ta biết chừng nào, ấy là để giữ cho chúng ta khỏi những đam mê của thế gian, của xác thịt và giúp cho chúng ta tìm được mọi ơn phước quý báu khi biết vâng lời Ngài và làm theo. Đó là điều mà chúng ta đã nghiên cứu qua trong các tuần lễ trước khi suy gẫm đến câu gốc trong Gia-cơ 1: 25.

GIA-CƠ 1: 25 – Nhưng kẻ nào xét kĩ luật pháp trọn vẹn, là luật pháp về sự tự do, lại bền lòng suy gẫm lấy, chẳng phải nghe rồi quên đi, nhưng hết lòng giữ theo phép tắc nó, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời.

Như vậy thì chúng ta đã biết rằng lợi ích thứ nhất của việc có đức tin thật nơi Đức Chúa Jêsus Christ là tránh được sự cám dỗ và đam mê của thế gian, của xác thịt. Còn lợi ích thứ hai của đức tin thật là giúp cho Cơ-đốc-nhân chúng ta có được sự vui mừng luôn luôn. Tôi xin đơn cử ra một thí dụ thực tế như thế nầy để quý Hội thánh có thể thấy được điều đó. Ấy là trong thực tế thì có những Cơ-đốc-nhân còn ghiền rượu và họ thường trưng dẫn câu chuyện Đức Chúa Jêsus hóa nước thành rượu trong tiệc cưới Ca-na để biện minh cho việc họ uống rượu, nhất là để che dấu cho việc họ không thể từ bỏ được rượu. Bởi lẽ đó mà có người còn trưng dẫn Kinh thánh trong Truyền đạo 10: 19 để lý lẽ rằng họ cần phải uống rượu để cuộc đời họ được vui vẽ. Câu Kinh thánh ấy đã được chép trong Truyền đạo 10: 19.

TRUYỀN ĐẠO 10: 19 – Người ta bày tiệc đặng vui chơi; rượu khiến cho đời vui; có tiền bạc thì ứng cho mọi sự.

Nhưng thật ra thì lời Kinh thánh ở đây chỉ xác định một trong những khía cạnh của rượu mà mọi người trong thế gian đều nhận biết được, nhưng điều đó không có nghĩa là Kinh thánh khuyến khích Cơ-đốc-nhân uống rượu. Khi Đức Chúa Jêsus hóa nước thành rượu ở tại tiệc cưới Ca-na thì Ngài cũng không hề bảo rằng con dân Chúa cần phải nên uống rượu. Lý lẽ cho rằng Đức Chúa Jêsus đã hóa nước thành rượu cốt để cho con dân Chúa được quyền uống rượu chỉ là quan điểm cá nhân của những người ghiền rượu thêm vào mà thôi. Vấn đề nghiện rượu trong vòng Cơ-đốc-nhân là một chủ đề cần phải nói đến và tôi cũng đã đề cập với quý Hội thánh một vài lần, nhưng nếu chỉ suy nghĩ đến khía cạnh làm cho cho vui của rượu thì Cơ-đốc-nhân chúng ta cần phải nhớ rằng khi chúng ta đã có đức tin thật trong Chúa thì niềm vui của chúng ta là tự nhiên xuất phát từ trong tấm lòng bởi việc được Đức-Thánh-Linh ở cùng, chớ không phải là do các tác động từ bên ngoài hoặc là phải lệ thuộc vào rượu, có nghĩa là không cần phải nhờ đến rượu để làm cho mình được vui. Nếu nói như những người ghiền rượu thì chẳng lẽ tất cả những người không uống rượu đều buồn phiền hết cả hay sao? Nếu nói theo lý lẽ của những người không bỏ được rượu thì chẳng lẽ mọi người đều cần phải uống rượu để được vui, còn nếu không uống thì vui không nổi hoặc sầu muộn cả ngày hay sao? Lời của Chúa trong Kinh thánh cho biết là niềm vui của những người có đức tin thật nơi Ngài thì được bắt nguồn từ sự hiện diện của Đức-Thánh-Linh đang ngự trong đời sống mình, chớ không phải là lệ thuộc vào hoàn cảnh hoặc lệ thuộc vào việc có uống rượu hay không. Lẽ thật ấy đã được bày tỏ ra trong Ga-la-ti 5: 22.

GA-LA-TI 5: 22 – Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.

Rõ ràng là lời của Chúa cho biết rằng một trong những ơn ban của Đức-Thánh-Linh khi Ngài ngự trong đời sống của chúng ta là ban cho chúng ta có sự vui mừng đầy dẫy và trọn vẹn. Sự vui mừng hớn hở như vậy là đặc điểm của những người có Đức-Thánh-Linh và nhờ đó mà người khác có thể nhận biết được. Cũng chính vì những người có đức tin thật trong Đức Chúa Jêsus được Đức-Thánh-Linh ngự cùng và nhờ Ngài mà có sự vui mừng hớn hở cho nên lời của Chúa mới khích lệ thêm là chúng ta nên nhờ Ngài để được vui mừng luôn luôn, như đã có chép trong Phi-líp 4: 4.

PHI-LÍP 4: 4 – Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn. Tôi lại còn nói nữa: Hãy vui mừng đi.

Sự vui mừng của Cơ-đốc-nhân có đức tin thật nơi Đức Chúa Jêsus là do sự hiện diện của Đức-Thánh-Linh trong đời sống mình, chớ không phải là do hoàn cảnh bên ngoài thuận hay nghịch, cũng không phải là nhờ vào rượu mới có thể vui được. Còn đối với những kẻ nói rằng họ cần phải uống rượu để được vui thì Chúa ở đâu trong đời sống họ? Nếu họ có Đức-Thánh-Linh thì đâu cần phải nhờ đến rượu để được vui, còn nếu họ phải nhờ đến rượu để có thể vui được thì Đức-Thánh-Linh chắc hẳn là không có hiện diện trong đời sống họ. Bởi vì một trong những sự ban cho của Đức-Thánh-Linh là sự vui mừng, như đã được bày tỏ ra trong Ga-la-ti 5: 22 vừa được trưng dẫn khi nãy, vậy thì nếu họ không có sự vui mừng đó mà phải nhờ đến rượu mới có thể vui được thì họ không có Đức-Thánh-Linh. Sự vui mừng trong đời sống họ còn bị lệ thuộc bởi rượu thì đó là sự vui mừng của thế gian, của xác thịt chớ không phải là sự vui mừng của một người được tự do trong Đấng Christ.

Chúng ta thấy rằng Phao-lô và Si-la có thể vui mừng hát ngợi khen Chúa trong tù ngục được là vì hai ông được đầy dẫy Đức-Thánh-Linh, chớ đâu phải là vì hoàn cảnh hoặc là phải nhờ đến rượu mới có thể vui. Cũng một thể ấy, khi Cơ-đốc-nhân có đức tin thật nơi Chúa thì trong mọi hoàn cảnh đều có thể vui mừng. Ấy là nhờ sự hiện diện của Đức-Thánh-Linh trong đời sống mình và nhờ sự ban cho của Ngài, trong đó có sự ban cho để được vui mừng luôn luôn. Sự vui mừng như vậy đâu cần phải có rượu. Còn người phải lệ thuộc vào rượu để được vui mừng thì đó là người chưa có đức tin thật nơi Đức Chúa Jêsus Christ. Lẽ thật trong Kinh thánh đã xác nhận và làm chứng cho điều đó. Vì vậy chúng ta có thể hiểu được rằng khi Cơ-đốc-nhân có đức tin thật nơi Chúa thì chúng ta sẽ thắng hơn được những đam mê và tham muốn mà người đời không thắng nỗi, cũng như chúng ta sẽ có sự vui mừng thật trong mọi hoàn cảnh mà không phải bị lệ thuộc vào bất cứ một điều gì. Bởi lẽ đó mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải có đức tin thật trong Ngài bằng cách suy gẫm các lẽ thật trong Kinh thánh một cách cẩn thận và Đức Chúa Jêsus cũng muốn Cơ-đốc-nhân có đức tin mạnh mẽ càng hơn để nhờ đó mà được lợi ích trăm bề. Chính bởi lý do đó mà Chúa đã từng quở trách các môn đồ khi họ có đức tin yếu kém và ít ỏi. Sự quở trách như vậy là bài học cho chúng ta ngày hôm nay để nhắc nhở rằng mọi Cơ-đốc-nhân phải tìm cách làm sao cho đức tin của mình được vững chắc, chân thật và mạnh mẽ trong Chúa càng ngày càng thêm. Đời sống của chúng ta có được phước nhiều hay không và có được lợi ích như thế nào thì đều tùy thuộc vào mức độ đức tin mà chúng ta có được trong Cứu Chúa Jêsus Christ.

Vì vậy, cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ cho con dân Ngài biết trân trọng và suy gẫm lời của Chúa một cách cẩn thận hơn nữa để nhờ đó mà có thể tăng trưởng đức tin đến mức độ xứng đáng cho danh Ngài và cho sự sống đời đời trong tương lai. Cầu xin Đức Chúa Trời tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn để con dân Chúa có thể sống đúng theo tiêu chuẩn thánh khiết trong Kinh thánh hầu đạt được đến mức độ đức tin thật mà Chúa hằng đòi hỏi. Và cầu xin Đức-Thánh-Linh ban thêm cho chúng ta sự khôn ngoan để nhận biết được tình yêu của Ngài qua các mẫu mực và luật pháp trong Kinh thánh để nhờ đó mà hết lòng làm theo một cách vui mừng. Amen.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *