THẾ NÀO LÀ ÂN ĐIỂN NHƯNG KHÔNG?
Lời của Chúa trong Kinh thánh cho chúng ta biết rằng loài người đều phạm tội kể từ thời A-đam và cả thế gian nầy không có một người nào công bình, vì vậy mà việc được tha thứ là một trong những ước muốn của nhân loại. Trong phương diện thuộc thể thì khi một người lầm lỗi hay phạm tội mà được người khác tha thứ thì chắc sẽ rất vui mừng. Trong phương diện thuộc linh thì cũng tương tự như vậy, và sự vui mừng còn lớn hơn nữa khi một tội nhân biết rằng mình được Đức Chúa Trời tha thứ. Nhưng vấn đề quan trọng ở chỗ là người ta có nhận biết rằng mình có tội hay không.
Chắc chắn chúng ta đều ít nhiều có kinh nghiệm trong những lẫn đi chứng đạo truyền giảng là có một số người thì không bao giờ nhận là họ có tội. Nhưng trong thực tế thì không ai trong vòng con người có thể tự hào rằng mình là người trọn vẹn, ngay cả người xưa cũng nhận biết điều đó và đã tuyên bố là Nhân vô thập toàn, có nghĩa là không có ai hoàn toàn tốt hoặc là hoàn toàn trọn vẹn. Và nếu con người còn nhận thấy được điều đó đối với nhau và với chníh mình thì huống chi là Đức Chúa Trời. Ngài từ trên cao nhìn xuống loài người và nhận biết rõ ràng từng đời sống một, dầu bên ngoài người ta có cố gắng che dấu con người thật bên trong như thế nào đi nữa thì Đức Chúa Trời đều biết rõ từng tấm lòng một, từng lời nói và mỗi một suy nghĩ của từng cá nhân. Vì vậy nếu một người biết rằng mình có tội và thật lòng ăn năn trước mặt Chúa thì người đó sẽ được tha thứ trong danh Đức Chúa Jêsus Christ. Ấy là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại và tình yêu đó đã bày tỏ ra bằng hành động cụ thể khi Ngài giáng thế làm người và chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho con người. Sự tha tội như vậy là ân điển nhưng không của Đức Chúa Trời. Chúng ta tạ ơn Chúa về tình yêu và sự nhân từ lớn lạ như vậy của Đức Chúa Trời. Nhưng vấn đề đáng nói ở đây là có một số người đã lầm lẫn về sự được tha tội cách nhưng không về những tội lỗi đã phạm trong quá khứ trước ngày tin nhận Chúa và việc cố tình phạm tội sau khi đã tin nhận Chúa mà vẫn nghĩ rằng sẽ tiếp tục được tha thứ cách nhưng không như vậy. Vấn đề nầy cần phải đặc biệt chú ý vì trong thực tế đã có một số Cơ-đốc-nhân nghĩ rằng hoặc được nghe giải thích rằng vì ân điển tha tội của Đức Chúa Trời là nhưng không cho nên con dân Chúa không cần phải làm gì hết cũng nhận được sự cứu rỗi, nên bởi lẽ đó mà họ cứ tiếp tục phạm tội và cứ tiếp tục sống đời sống cũ giống như những ngày chưa tin.
Mặc dầu khuynh hướng chung của Cơ-đốc-nhân là muốn nghe nhiều về phước chớ không muốn nghe nhiều về tội lỗi, nhưng vì Đức Chúa Trời là Đấng Công Bằng, tức là Đấng thưởng phạt phân minh nên Cơ-đốc-nhân sẽ được phước nhiều hơn và dư dật hơn nếu biết điều nào là tội để tránh xa. Ngoài ra, phước lớn nhất mà Cơ-đốc-nhân có thể nhận được từ nơi Chúa là sự sống đời đời. Việc được ở với Đức Chúa Trời luôn luôn trong nơi thánh khiết tuyệt mỹ của Chúa là điều hết sức cao quý cho nên tiêu chuẩn của Ngài dành cho những người được chọn vào Thiên đàng cũng rất cao, bởi lẽ đó mà Cơ-đốc-nhân phải biết về những tiêu chuẩn ấy cho thật đầy đủ và cố hết sức để đạt cho bằng được.
Sự cứu chuộc mà lời Kinh thánh thường đề cập đến là việc nhận được sự sống đời đời trong Thiên đàng vihh hiển của Chúa và nơi đó không phải là nơi mà ai cũng có thể vào được, nhất là đối với những người còn vương vấn trong tội lỗi. Chúng ta thử nghĩ mà xem, trên thế gian nầy có những dinh thự, những lâu đài nguy nga tráng lệ mà người bình thường như chúng ta không thể vào được đó. Thế thì khi chúng ta suy nghĩ đến nơi ngự của Đức Chúa Trời thì phải biết rằng nơi ấy còn đẹp đẽ tráng lệ triệu triệu lần hơn nơi sang trọng nhất của loài người. Vì vậy Cơ-đốc-nhân không nên xem nhẹ việc được chọn vào nơi vinh hiển ấy hoặc nghĩ rằng mình dầu sống thế nào rồi cũng vào được đó. Cách suy nghĩ như vậy còn chưa chắc là được người ta cho vào nơi sang trọng của loài người, đừng nói chi là được vào nơi ngự của Chúa. Mặc dầu Đức Chúa Trời là Đấng Yêu Thương nhưng Cơ-đốc-nhân cũng phải nhớ rằng Ngài còn là Đấng Thánh Khiết tuyệt đối nữa. Vì vậy khi Cơ-đốc-nhân nghĩ đến việc được vào Thiên đàng như là chuyện không mấy quan trọng vì cớ mình đã cầu nguyện tin Chúa rồi và cứ sống thế nào cũng được thì như vậy tức là đang xem thường nơi ngự của Chúa, nếu không nói là đang xem thường cả sự vinh hiển của Đấng Tạo Hóa. Khi Đức Chúa Trời phải giáng sinh vào trong trần gian nầy để chịu sỉ nhục và chịu chết trên thập tự giá hầu cho con người có thể được vào Thiên đàng trong tương lai thì chúng ta phải biết rằng điều đó không phải là chuyện đơn giản hoặc dễ dàng. Vì nếu chuyện được vào Thiên đàng dễ dàng thì Đức Chúa Jêsus không cần phải chịu sỉ nhục và chịu chết cho nhân loại và chính Ngài cũng không cần phải cảnh cáo trước với Cơ-đốc-nhân rằng đó là cửa hẹo và con đường chật mà ít người tìm được. Chúa đổ huyết quý báu của Ngài không phải để con người muốn sống thế nào cũng được rồi sau đó được nhận vào Thiên đàng đâu. Bởi lẽ đó mà lời của Chúa trong Kinh thánh đã nhắc nhở rằng mỗi một Cơ-đốc-nhân phải hết sức cẩn thận và quan tâm đặc biệt đến vấn đề làm sao để mình chắc chắn nhận được sự cứu rỗi trong ngày Đức Chúa Jêsus trở lại (Phi-líp 2: 12).
Câu Kinh thánh vừa được trưng dẫn là lời của sứ đồ Phao-lô nhắc nhở các Cơ-đốc-nhân cần phải hết sức quan tâm đến sự cứu rỗi của linh hồn mình, mà Kinh thánh đã dùng chữ là run rẩy để có thể diễn tả được sự nghiêm trọng của vấn đề. Nhưng thường thì có một số Cơ-đốc-nhân rất không thích nghe đến việc được nhắc nhở về sự cứu rỗi, có lẽ vì nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ được cứu trong tương lai, và vì vậy mà chỉ muốn nghe về phước và những điều vui vui tựa như chuyện trong nhà ngoài phố để thỏa mãn tâm lý cá nhân mà thôi. Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ cho thật kỹ lưỡng thì sẽ nhận biết rằng sự cứu rỗi chính là phước lớn nhất mà con người có thể nhận được, và là phước lớn nhất mà Cơ-đốc-nhân cần phải dành hết sức lực, tâm trí và thời giờ để tìm kiếm cho bằng được điều đó. Vì nếu Cơ-đốc-nhân chỉ muốn được phước trong đời sống nầy mà thôi và lơ là với việc chính mình có được cứu rỗi hay không vào ngày Chúa trở lại, thì đó là điều mà Kinh thánh cho biết là sự kém may mắn hơn hết trong đời sống nầy (1Cô-rinh-tô 15: 19).
Chữ khốn nạn nầy thường được người đời dùng khi giận dữ đối với người khác nên nghe rất nặng nề, nhưng thật ra ý nghĩa của nó là có ý muốn nói đến việc gặp những tai nạn khốn đốn hơn hết, mà chúng ta có thể dùng một số từ ngữ khác để mô tả về điều đó, chẳng hạn như là sự kém may mắn một cách nghiêm trọng hơn người khác. Như vậy thì câu gốc vừa được trưng dẫn cho chúng ta thấy rằng nếu Cơ-đốc-nhân tin Chúa chỉ vì muốn được phước trong đời nầy mà thôi thì chúng ta sẽ là những người bị xem là kém may mắn hơn hết mọi người trong trần gian. Vì vậy mà Kinh thánh đã luôn luôn nhắc nhở chúng ta là trọng tâm hàng đầu của mỗi một con dân Chúa là phải làm sao để có thể chắc chắn rằng mình sẽ nhận được sự sống đời đời trong tương lai. Và đó cũng là ý muốn của Đức Chúa Trời đối với Cơ-đốc-nhân (1Ti-mô-thê 2: 4).
Vì sự được cứu rỗi là ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại nên bất cứ người nào cố hết sức để làm theo ý muốn đó thì sẽ nhận được sự sống đời đời như là phần thưởng vì đã vâng phục theo ý muốn của Chúa (1Giăng 2: 17).
Lời Kinh thánh vừa được trưng dẫn thì rất dễ hiểu, nhưng nếu suy nghĩ thêm một chút thì chúng ta có thể thấy rằng nếu một người không làm theo ý muốn của Chúa thì chắc chắn sẽ không nhận được sự sống đời đời. Đó là sự chân thật của lời Đức Chúa Trời, bởi vì không thể có trường hợp xãy ra ngược lại với lời của Chúa đã có ghi trong Kinh thánh, tức là con người không cần làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời cũng được vào Thiên đàng. Vì vậy mà Cơ-đốc-nhân phải cố sức làm sao để đạt được sự cứu rỗi cho mình, và đó là hành động vâng phục vì đã làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Nhưng đã có một vài trường hợp xãy ra khi Cơ-đốc-nhân được nghe giảng dạy rằng con dân Chúa không cần phải lo lắng là mình sẽ được cứu rỗi hay không. Người ta lý luận rằng chuyện đó đã có Chúa lo rồi nên con dân của Chúa cứ thoải mái mà sống không cần phải bận tâm về điều ấy. Nhưng nói như vậy là rao giảng ngược lại với lời của Chúa mà tôi đã vừa trưng dẫn ở trên. Sứ đồ Phao-lô đã được Đức-Thánh-Linh soi dẫn để khuyên Cơ-đốc-nhân rằng phải lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc của mình và chính ông cũng đã từng quan tâm lo lắng đến việc cá nhân ông không bị bỏ lại trong ngày Đức Chúa Jêsus Christ tái lâm, như điều mà tôi đã trình bày với quý Hội thánh trong bài giảng với Chủ đề Ba Yếu Tố Của Sự Cứu Rỗi, nhưng trong khi đó thì có những người lại khuyên Cơ-đốc-nhân cứ sống thoải mái không cần phải lo rằng mình có nhận được sự cứu rỗi hay không. Trong hai lời đó thì Cơ-đốc-nhân chúng ta sẽ nghe ai? Chúng ta có nên nghe theo lời của con người để bỏ qua lời của Chúa hay không? Chúng ta đều biết chắc chắn là không. Vậy mà trong thực tế đã có một số Cơ-đốc-nhân làm ngược lại, tức là nghe theo lời loài người để bỏ qua lời của Đức Chúa Trời. Điều đó rất là tai hại và nguy hiểm cho linh hồn.
Chúng ta có thể nhớ lại rằng khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá và trước khi Ngài trút hơi thở cuối cùng thì đã có phán rằng mọi sự đã được trọn (Giăng 19: 30).
Chữ được trọn mà Đức Chúa Jêsus đã phán trong câu Kinh thánh nầy có nghĩa là tất cả những điều cần phải làm để cho con người được cứu rỗi thì Đức Chúa Trời đã làm hết rồi, từ việc thương xót, chờ đợi con người trở lại, cho đến việc chính Ngài giáng thế làm người, chịu khổ, chịu sỉ nhục và chịu chết đau đớn trên thập tự giá thì Đức Chúa Trời đều đã làm hết rồi. Bây giờ phần còn lại là của con người. Chính bởi lẽ đó mà Đức-Thánh-Linh mới soi dẫn cho Phao-lô để viết ra lời phán bảo con người rằng mỗi cá nhân phải hết sức cố gắng, cố gắng đến độ run rẩy mà làm nên sự cứu chuộc của mình, tức là phải chắc chắn rằng mình sống đúng theo yêu cầu của Đức Chúa Trời để có thể nhận được sự sống đời đời trong tương lai.
Nhưng chắc chắn là quý Hội thánh đã từng nghe có những người dùng lời Kinh thánh trong Rô-ma 3: 24, tức là câu gốc nền tảng của chúng ta ngày hôm nay để lập luận rằng Đức Chúa Trời đã ban cho những người cầu nguyện tin Ngài ân điển nhưng không để được kể là công bình và như vậy tức là sẽ nhận được sự sống đời đời trong tương lai nên không cần phải sống nơm nớp lo sợ rằng mình có được cứu rỗi hay không. Lập luận như vậy là chỉ dựa vào có một câu Kinh thánh mà giải thích sai lầm về lẽ thật của Kinh thánh có liên quan sự cứu rỗi linh hồn của con người (Rô-ma 3: 21-26).
Phần Kinh thánh mà chúng ta vừa đọc qua là một trong những phần quan trọng trong lẽ thật của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi mà Ngài dành cho cả nhân loại sống trên mặt Địa cầu. Tất cả các Cơ-đốc-nhân đều hiểu được những phần chính yếu của lẽ thật ấy khi nhận biết rằng hễ bất cứ người nào thật lòng cầu nguyện tin Chúa thì sẽ được tha thứ tội lỗi và được kể là công bình trong Đức Chúa Jêsus Christ. Nhưng trong phần Kinh thánh nầy lại có những chữ mà ít người để ý và vì vậy mà giải thích sai lạc về chương trình cứu rỗi loài người của Đức Chúa Trời. Đó là những chữ Vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia. Điều đó có nghĩa là khi một người thật lòng ăn năn và cầu nguyện tin Chúa thì ngay lập tức người đó sẽ được tha thứ hết mọi tội mà mình đã phạm trong quá khứ mặc dầu từ trước đến thời điểm lúc bấy giờ chưa làm một điều gì hết cho Chúa. Vì vậy mà ân điển tha thứ đó được gọi là ân điển nhưng không. Nhưng trong Kinh thánh không hề cho biết rằng sau khi một người đã tin Chúa rồi thì người ấy sẽ được tiếp tục được tha thứ những tội đã phạm một cách cố ý. Mặc dầu lời Kinh thánh cho biết là sau khi Đức Chúa Jêsus thăng thiên về trời thì Ngài sẽ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho những kẻ phạm tội, thì sự cầu thay ấy là cho những tội lỗi phạm phải vì vô ý, vì lầm lỡ chớ không phải là Ngài sẽ tiếp tục cầu thay những kẻ cứ cố tình phạm tội mãi (Hê-bơ-rơ 10: 26-27).
Câu Kinh thánh vừa được trưng dẫn đã được viết ra trong thời kỳ ân điển và sau khi Đức Chúa Jêsus đã dâng thân thể Ngài trên thập tự giá để làm của lễ đền tội cho loài người, mà lời của Chúa lại cho biết là không còn có tế lễ nào nữa để chuộc tội cho những kẻ cố ý phạm tội thì Cơ-đốc-nhân phải cảnh giác. Vì nguyên tắc của Đức Chúa Trời là không chấp nhận sự phạm tội một cách cố ý. Ngày xưa Đức Chúa Trời đã phán dạy điều đó với dân Y-sơ-ra-ên để cảnh cáo họ đừng phạm tội giống như vậy (Dân số ký 15: 30).
Rõ ràng là lời của Chúa đã cho biết rằng những kẻ cố tình phạm tội là đang khinh bỉ Đức Chúa Trời và hình phạt bị truất khỏi dân sự là hình bóng cho Cơ-đốc-nhân biết rằng ngày nay bất cứ người nào phạm tội giống như vậy cũng bị truất khỏi vòng Cơ-đốc-nhân trong mắt của Đức Chúa Trời. Trước đây đã có một vài người khi được tôi trình bày như vừa trình bày với quý Hội thánh thì họ lý luận rằng đó là luật pháp của thời kỳ Cựu ước nên không cần phải để ý, nhưng tôi hy vọng rằng không có con dân Chúa nào ngày hôm nay suy nghĩ giống như vậy. Đức Chúa Trời của chúng ta là Đấng không bao giờ thay đổi, thì chẳng lẽ sự cố tình phạm tội ngày hôm nay lại là chuyện bình thường đối với Ngài? Ngày xưa vua Đa-vít đã từng cầu xin Đức Chúa Trời giúp ông khỏi sự cố ý phạm tội (Thi thiên 19: 13) thì chẳng lẽ ngày hôm nay Cơ-đốc-nhân lại nghĩ rằng mình còn xứng đáng hơn vua Đa-vít nữa để cho rằng dẫu mình cứ cố tình phạm tội thì Đức Chúa Trời vẫn bỏ qua điều ấy và Đức Chúa Jêsus vẫn cầu thay cho mình?
Trong bài giảng với Chủ đề Khi Nào Đức Chúa Jêsus Trở Lại phần thứ 2 thì tôi đã thưa trình với quý Hội thánh là Đức Chúa Jêsus sẽ không bao giờ cầu thay cho những kẻ cố tình phạm tội, vì sự phạm tội cách như vậy là tiếp tục đóng đinh Đức Chúa Jêsus lên thập tự giá và tiếp tục sỉ nhục Ngài (Hê-bơ-rơ 6: 4-6).
Qua các câu Kinh thánh đã được trưng dẫn thì chúng ta có thể thấy được sự cố tình phạm tội là khinh bỉ Đức Chúa Trời và sỉ nhục Đức Chúa Jêsus, thế thì chẳng lẽ Ngài cứ tiếp tục cầu thay cho những kẻ phạm trọng tội với Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus Christ giống như vậy? Bởi lẽ đó những lời rao giảng ru ngủ rằng Cơ-đốc-nhân sẽ được cứu rỗi bất kể việc sống như thế nào trong trần gian nầy là những lý luận nguy hiểm cho linh hồn của người nghe. Thậm chi họ còn trấn an con dân Chúa rằng Cơ-đốc-nhân dầu có phạm tội bao nhiêu lần cũng được tha. Nói như vậy là dẫn dắt Cơ-đốc-nhân đi đến chỗ hư mất.
Theo nguyên tắc của Đức Chúa Trời thì chỉ khi nào một người thật lòng ăn năn thì mới được tha thứ. Đó là nguyên tắc của sự yêu thương trong lẽ thật (Lu-ca 17: 3).
Khi Đức Chúa Jêsus đã giảng dạy cho các môn đồ ngày xưa và Cơ-đốc-nhân ngày nay rằng chỉ khi nào người ta biết ăn năn thì mình mới tha thứ thì chẳng lẽ Đức Chúa Trời lại tha thứ cho những kẻ cứ cố tình phạm tội và không chịu ăn năn? Nếu là như vậy thì chẳng lẽ những kẻ cố tình phạm tội lại có đặc biệt quá lớn trong cõi thuộc linh hay sao? Chúng ta biết rõ ràng rằng theo nguyên tắc đời đời của Đức Chúa Trời thì một người thật lòng ăn năn thì sẽ không bao giờ tái phạm lại tội lỗi cũ và cũng sẽ không bao giờ cố tình phạm tội. Một người có lòng ăn năn thật như vậy thì chắc chắn sẽ được tha thứ như trong trường hợp của người phụ nữ bị bắt quả tang khi phạm tội tà dâm (Giăng 8: 11).
Nguyên tắc tha thứ cách như vậy đã được Đức Chúa Trời thiết lập và đã được Đức Chúa Jêsus dạy dỗ cho mọi người thì chắc rằng chính Ngài cũng sẽ không phạm vào nguyên tắc ấy để tiếp tục tha thứ cho những kẻ cứ cố tình phạm tội mãi. Chính bởi lẽ đó mà Cơ-đốc-nhân sau khi đã ăn năn tin nhận Chúa rồi thì phải cố hết sức cậy ơn của Đức-Thánh-Linh để tránh sự cố tình phạm tội và đừng để cho những kẻ kia dẫn dụ rằng vì ân điển tha thứ nhưng không của Đức Chúa Trời mà Cơ-đốc-nhân dầu có phạm tội đến bao nhiêu lần cũng vẫn được tha. Ly thuyết sai lạc đó hoàn toàn mâu thuẫn với chân lý của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh.
Khi Cơ-đốc-nhân thật sự biết ăn năn và cố hết sức tránh khỏi sự cố tình phạm tội thì Đức-Thánh-Linh sẽ thêm sức cho để con dân của Chúa có thể đạt đến được mức độ mạnh mẽ trong đức tin đối với tội lỗi. Phương pháp duy nhất mà lời của Chúa đã dạy dỗ để Cơ-đốc-nhân có thể tránh được sự cố tình phạm tội là phải tái sanh (1Giăng 3: 9).
Chính nhờ sự được tái sanh trong Đấng Christ bởi quyền năng của Đức Chúa Trời qua Đức-Thánh-Linh thì Cơ-đốc-nhân mới có thể thắng hơn tội lỗi, mới có thể sống một đời đẹp lòng Chúa và sẽ nhận được sự sống đời đời trong tương lai. Còn nếu không được tái sanh thì Cơ-đốc-nhân sẽ còn tiếp tục phạm tội mãi, nhất là những tội cố ý và nguy cơ bị bỏ lại trong ngày Đức Chúa Jêsus tái lâm sẽ càng ngày càng lớn. Bởi lẽ đó mà ngay cả vua Đa-vít khi xưa cũng thường cầu nguyện xin Chúa giúp ông tránh khỏi sự cố tình phạm tội.
Như lời cầu nguyện của vua Đa-vít mà tôi đã trưng dẫn khi nãy thì khi một người tránh được sự cố tình phạm tội thì sẽ được kể là một người không chỗ trách được. Và đó là đặc điểm và mức độ đức tin mà tất các Cơ-đốc-nhân cần phải đạt đến để có thể nhờ đó mà nhận được phần thưởng của sự cứu rỗi là sự sống đời đời trong ngày Đức Chúa Jêsus tái lâm (1Ti-mô-thê 6: 14).
Một số người tưởng rằng câu gốc nầy chỉ dành riêng cho Ti-mô-thê hay là những người hầu việc Chúa mà thôi, nhưng thật ra thì tiêu chuẩn thiện lành không chỗ trách được cũng áp dụng cho tất cả các Cơ-đốc-nhân, không miễn trừ một ai (1Tê-sa-lô-ni-ca 5: 23).
Chúng ta có thể thấy được rõ ràng trong 2 câu Kinh thánh vừa trưng dẫn rằng ngay trong thời kỳ ân điển nầy thì con dân của Chúa cũng cần phải sống mẫu mực theo tiêu chuẩn thiện lành của Đức Chúa Trời đã có ghi trong Kinh thánh chớ không thể nói rằng vì đây là thời kỳ ân điển nên Cơ-đốc-nhân không còn thuộc dưới luật pháp của Kinh thánh nữa hoặc tưởng lầm rằng vì ân điển nhưng không của Đức Chúa Trời nên mình vẫn tiếp tục được tha thứ những tội lỗi đã phạm một cách cố ý. Suy nghĩ như vậy hoặc nghe theo những lý thuyết ru ngủ tương tư như thế rất là nguy hiểm. Bởi lẽ đó mà con dân Chúa lúc nào cũng phải cẩn thận về những điều mà mình đã nghe về sự giải thích Kinh thánh, và đáng phải bắt chước các Cơ-đốc-nhân của thời kỳ Hội thánh đầu tiên (Công vụ 17: 11).
Vì vậy, cầu xin Đức Chúa Trời nhắc nhở Cơ-đốc-nhân luôn luôn bằng lời của Ngài trong Kinh thánh để con dân của Chúa từ nay biết cẩn thận sống theo đường lối mà Chúa chỉ định sau khi được tha thứ những tội lỗi trong quá khứ một cách nhưng không. Cầu xin Đức-Thánh-Linh giải bày lời của Ngài càng hơn để Cơ-đốc-nhân có thể hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời một cách rõ ràng trong thời kỳ sau rốt nầy, và cầu xin Đức-Thánh-Linh soi sáng để con dân Chúa có thể nhận biết lẽ thật trong Kinh thánh một cách đầy đủ trọn vẹn để nhờ đó biết tập tành sống một đời mẫu mực trọn vẹn không chỗ trách được cho đến ngày Đức Chúa Jêsus Christ tái lâm. Amen.
CÁC CÂU KINH THÁNH ĐÃ ĐƯỢC TRƯNG DẪN:
DÂN SỐ KÝ 15: 30 – Nhưng ai cố ý phạm tội, hoặc người sanh trong xứ, hay là khách ngoại bang, thì ai đó khinh bỉ Đức Giê-hô-va; người sẽ bị truất khỏi dân sự mình.
THI THIÊN 19: 13 – Xin Chúa giữ kẻ tôi tớ Chúa khỏi cố ý phạm tội; Nguyện tội ấy không cai trị tôi, thì tôi sẽ không chỗ trách được, và không phạm tội trọng.
LU-CA 17: 3 – Các ngươi hãy giữ lấy mình. Nếu anh em ngươi đã phạm tội, hãy quở trách họ; và nếu họ ăn năn, thì hãy tha thứ.
GIĂNG 8: 11 – Người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa.
GIĂNG 19: 30 – Khi Đức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn.
CÔNG VỤ 17: 11 – Những người nầy có ý hẳn hoi hơn người Tê-sa-lô-ni-ca, đều sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh thánh, để xét lời giảng có thật chăng.
RÔ-MA 3: 21-26 – Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp: tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus Christ, cho mọi người nào tin, chẳng có phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Jêsus.
1CÔ-RINH-TÔ 15: 19 – Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời nầy mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết.
PHI-LÍP 2: 12 – Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình.
1TÊ-SA-LÔ-NI-CA 5: 23 – Nguyền xin chính Đức Chúa Trời bình an khiến anh em nên thánh trọn vẹn, và nguyền xin tâm thần, linh hồn, và thân thể của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được, khi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta đến!
1TI-MÔ-THÊ 2: 4 – Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật.
1TI-MÔ-THÊ 6: 14 – Phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.
HÊ-BƠ-RƠ 6: 4-6 – Vì chưng những kẻ đã được soi sáng một lần, đã nếm sự ban cho từ trên trời, dự phần về Đức Thánh Linh, nếm đạo lành Đức Chúa Trời, và quyền phép của đời sau, nếu lại vấp ngã, thì không thể khiến họ lại ăn năn nữa, vì họ đóng đinh Con Đức Chúa Trời trên thập tự giá cho mình một lần nữa, làm cho Ngài sỉ nhục tỏ tường.
HÊ-BƠ-RƠ 10: 26-27 – Vì nếu chúng ta đã nhận biết lẽ thật rồi, mà lại cố ý phạm tội, thì không còn có tế lễ chuộc tội nữa, nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét, và lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi.
1GIĂNG 2: 17 – Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.
1GIĂNG 3: 9 – Ai sanh bởi Đức Chúa Trời, thì chẳng phạm tội, vì hột giống của Đức Chúa Trời ở trong người, và người không thể phạm tội được, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời.