SỰ KHOE MÌNH VỀ SỐ LƯỢNG 1

Đây là đề tài mà chúng tôi dự định viết đã lâu sau khi có anh chị em gợi ý, nhưng cứ bị trì hoãn mãi vì các bận rộn khác của công việc. Đến nay, khi có người nhắc lại, chúng tôi cậy ơn Chúa và tìm thời gian để trình bày, hầu giúp đỡ cho một số con cái Chúa có cái nhìn bao quát, cởi mở và xứng đáng hơn với công việc của Hội thánh, hoặc ít nữa cũng để cảm thông và giải tỏa sự băn khoăn của vài anh chị em khác.

Thông thường, khi tôi con Chúa từ hai Hội thánh khác nhau gặp gỡ lần đầu tiên và có dịp trao đổi thông tin để tạo mối quen biết, thì câu hỏi vẫn hay đặt ra là: ‘Hội thánh của anh chị em có bao nhiêu người?’. Thắc mắc nầy vốn bắt nguồn từ tấm lòng ao ước của Cơ-đốc nhân trong việc truyền giảng chứng đạo cho người chưa biết Chúa, nhưng lâu dần dường như đây là câu hỏi để nhiều người, nhất là các tôi con của Chúa trong các Hội thánh lớn và đông, được dịp khoe mình.

Điều nầy thường thấy xãy ra giữa hai tôi con Chúa ở trong nước và từ nước ngoài về thăm quê hương. Có lẽ vì cớ tâm lý khoe mình nên câu hỏi trên thường được các tôi con Chúa trong nước nêu ra. Có người còn cho chúng tôi biết là trong lúc hỏi, trên nét mặt của nhiều người còn có sự dè bĩu, sau đó là cặp theo các lời chê bai, chẳng hạn như: ‘Sao Hội thánh của anh chị em ít quá vậy? Thành lập bao lâu rồi mà chỉ có bấy nhiêu người?’ Sự thiếu cảm thông và thiếu hiểu biết trong những lần gặp gỡ như vậy có thể tạo nên khoảng cách giữa tôi con Chúa trong và ngoài nước, nhiều khi đi đến chỗ giận hờn, hoặc thông thường là gây nên sự tự ti mặc cảm ở phía bên người thuộc Hội thánh nhỏ, và sự tự hào kiêu hãnh của người thuộc Hội thánh lớn, đông đúc hơn.

Chúng tôi đưa ra nhận định nầy vì thấy được thực tế xãy ra nơi một số người. Có thể vấn đề còn bao quát và đa dạng hơn nữa, nhưng theo nhận xét của chúng tôi và của một số các anh chị em khác, là những người vẫn còn thường xuyên liên lạc với các tôi con Chúa ở tại quê nhà, thì chúng tôi chưa một lần nghe biết rằng có Hội thánh nào tại Việt Nam từng đặt nan đề cầu nguyện cho chương trình truyền giảng của Hội thánh người Việt tại hải ngoại, trái lại chỉ có chê bai và dè bĩu mà thôi. Nhưng cá nhân chúng tôi thì đã nhiều lần có mặt trong các buổi cầu nguyện đặc biệt cho việc truyền giảng tại quê nhà, nhất là vào ngày đầu Năm Mới Âm lịch. Chẳng những vậy thôi các anh chị em xa xứ cũng rất sốt sắng trong việc đóng góp tài chánh cho công tác truyền giảng tại quê hương. Trong khi đó thì dường như câu hỏi của các tôi con Chúa tại Việt Nam về tình hình của các Hội thánh hải ngoại là chỉ để so sánh và tự kiêu hãnh về số lượng con cái Chúa trong Hội thánh của họ cũng như số người tin Chúa trong các buổi truyền giảng tại địa phương.

Trước khi trình bày xa hơn về sự kiêu hãnh không nên có nầy trong vòng tôi con Chúa ở tại quê nhà, thì chúng tôi xin khẳng định một điều như sau, mà có lẽ khi mới nghe qua sẽ có anh chị em sửng sờ thắc mắc: Rằng, nếu một thành phố tại Mỹ có khoảng 100 gia đình người Việt cư ngụ và Hội thánh tại địa phương ấy có 30 con cái Chúa, thì Hội thánh nhỏ bé ít người đó đông hơn hầu hết các Hội thánh tại Việt Nam.

Vì thiếu suy nghĩ sâu xa nên các tôi con của Chúa tại Việt Nam chỉ biết đến số lượng mà quên nhìn vào tỷ lệ dân số của người Việt tại quê nhà và tại hải ngoại. Tại Việt Nam thì các Hội thánh đa số đều có từ 100 người trở lên, còn tại hải ngoại thì các Hội thánh người Việt thường chỉ có khoảng từ 30 đến 40 người mà thôi, nếu được nhiều hơn con số đó thì đã được kể là đông và phát triển rồi.

Nguyên nhân là vì có sự khác biệt rất lớn giữa dân số của Việt Nam và dân số của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Theo ước tính mới nhất của Liên hiệp quốc thì dân số của Việt Nam đã vượt qua con số 90 triệu người. Còn riêng tại Hoa-kỳ thì tổng số người Việt có mặt ở đây chỉ khoảng hơn 1 triệu người. Dân số người Việt tại các quốc gia khác còn ít hơn thế nữa, chẳng hạn như tại Úc-đại-lợi thì vẫn chưa đạt tới được con số 300,000 người. Nếu so sánh giữa dân số người Việt tại quê nhà và tại Hoa-kỳ thì tỷ lệ đó là 90/1. Như vậy, nếu một Hội thánh Việt Nam tại Hoa-kỳ có số con cái Chúa là 30 người, thì tương đương với một Hội thánh đông khoảng 2700 người tại quê nhà. Thử hỏi có bao nhiêu Hội thánh tại Việt Nam có số tín hữu chính thức đông như vậy?

Ấy là chưa kể đến việc tại quê hương chúng ta đâu đâu cũng đông chật người, còn tại Hoa-kỳ thì nhiều khi một thành phố chỉ có vài mươi gia đình người Việt, vì vậy mà vào ngày Chúa nhật có nhiều con cái Chúa phải lái xe hơn 1 tiếng rưỡi đồng hồ trên xa lộ để đến thờ phượng Chúa rồi lái về cũng bằng thời gian như vậy. Nếu tính theo tốc độ giao thông tại đây thì 1 tiếng rưỡi đồng hồ ấy tương đương với đoạn đường xa hơn 200 cây số.

Vì thế, nếu so với mật độ dân số (số người Việt sống trong vòng 1 cây số vuông) và tỷ lệ chênh lệch giữa cộng đồng người Việt tại hải ngoại và dân số người Việt tại quê nhà, thì Hội thánh tại Việt Nam kém phát triển hơn. Sau hơn 100 năm Tin Lành đến Việt Nam mà Hội thánh Việt Nam chỉ có bao nhiêu người như thế, trong khi Hội thánh tại Hoa-kỳ, vốn được thành lập vào những năm sau 1975, lại có tỷ lệ con cái Chúa đông hơn. Hầu như không có một người nào nhìn thấy điểm khác biệt nầy nên các tôi con Chúa tại Việt Nam chỉ biết căn cứ vào số lượng hiện tại mà kiêu hãnh về sự đông đảo của Hội thánh mình đến nỗi trong sự giao tiếp với các anh chị em khác từ hải ngoại về thăm quê nhà trở thành dịp làm mất lòng nhau. Thật đáng tiếc lắm.

Có một số tôi tớ Chúa ở trong nước ra hải ngoại hầu việc Chúa và mặc dầu họ rất cố gắng, tận tâm, nhưng nhân sự trong Hội thánh mới vẫn không thể nào bằng được với số lượng tín hữu của Hội thánh cũ tại quê nhà. Nhưng nếu tính theo tỷ lệ dân số thì họ lại thành công hơn so với lúc còn hầu việc Chúa trong nước.

(còn tiếp)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *