HEAVEN AND HELL
– Hell means death:
SÁNG THẾ KÝ 37: 35 – Hết thảy con trai, con gái hiệp lại an ủi người, nhưng không chịu; bèn nói rằng: Ta để tang luôn xuống chốn âm phủ cùng con ta! Ấy đó, cha Giô-sép khóc than chàng như vậy.
SÁNG THẾ KÝ 44: 29 – Nếu bay còn dắt đứa nầy đi khỏi mặt ta nữa, rủi có điều tai hại chi xảy đến cho nó, tức nhiên bay sẽ làm cho kẻ tóc bạc nầy đau lòng xót dạ mà xuống âm phủ.
SÁNG THẾ KÝ 44: 31 – Khi vừa thấy con út không còn nữa, chắc người sẽ chết. Nếu vậy, các tôi tớ chúa sẽ làm cho cha già tóc bạc của chúng tôi, -cũng là kẻ tôi tớ chúa,- đau lòng xót dạ xuống âm phủ.
1CÁC VUA 2: 6 – Con hãy cứ sự khôn ngoan con mà cư xử, chớ để đầu bạc nó xuống âm phủ cách bình yên.
1CÁC VUA 2: 9 – Bây giờ, con chớ để nó khỏi phạt, vì con là khôn ngoan, biết thế nào phải xử nó: con khá làm cho đầu bạc nó dính máu mà xuống âm phủ.
GIÓP 21: 13 – Chúng nó may mắn trải qua các ngày đời mình, rồi bỗng chốc sa xuống âm phủ.
THI THIÊN 18: 5 – Những dây Âm phủ đã vấn lấy tôi, lưới sự chết hãm bắt tôi.
THI THIÊN 30: 3 – Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã đem linh hồn tôi khỏi âm phủ, gìn giữ mạng sống tôi, hầu tôi không xuống cái huyệt.
THI THIÊN 141: 7 – Hài cốt chúng tôi bị rải rác nơi cửa Âm phủ, khác nào khi người ta cày ruộng và tách đất ra.
Ê-SAI 38: 10 – Tôi từng nói: Vậy thì, đang khi giữa trưa của đời tôi, tôi hầu vào cửa Âm phủ, còn mấy năm thừa bị cất mất!
Ê-XÊ-CHI-ÊN 31: 15-16 – Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mà nó xuống nơi âm phủ, ta đã khiến kẻ thương khóc vì cớ nó, ta lấp vực sâu; ngăn cấm các sông chảy mạnh, và những dòng nước lớn bị tắt lại. Ta khiến Li-ban buồn rầu vì cớ nó, và mọi cây ngoài đồng vì nó bị suy tàn. Ta làm cho các dân tộc nghe tiếng nó đổ xuống mà rúng động, khi ta quăng nó xuống đến âm phủ, với hết thảy những kẻ xuống trong hầm hố! Bấy giờ mọi cây của Ê-đen, những cây rất xinh, những cây rất tốt của Li-ban, hết thảy những cây ngày trước được nhiều nước tưới, đều được yên ủi trong nơi vực sâu của đất.
Ô-SÊ 13: 14 – Ta sẽ cứu chúng nó khỏi quyền lực của âm phủ, và chuộc chúng nó ra khỏi sự chết. Hỡi sự chết, nào tai vạ mầy ở đâu? Hỡi âm phủ, nào sự hủy hoại mầy ở đâu? Ôi! Sự ăn năn sẽ bị giấu khỏi mắt ta.
KHẢI HUYỀN 6: 8 – Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa vàng vàng hiện ra. Người cỡi ngựa ấy tên là Sự chết, và Âm phủ theo sau người. Họ được quyền trên một góc tư thế gian, đặng sát hại dân sự bằng gươm dao, bằng đói kém, bằng dịch lệ và bằng các loài thú dữ trên đất.
– Hell also means a sudden death:
DÂN SỐ KÝ 16: 30 – Nhưng nếu Đức Giê-hô-va làm một sự thật mới, nếu đất hả miệng ra nuốt họ và mọi món chi thuộc về họ, nếu họ còn đang sống mà xuống âm phủ, thì các ngươi sẽ biết rằng những người nầy có khinh bỉ Đức Giê-hô-va.
DÂN SỐ KÝ 16: 33 – Các người đó còn đang sống và mọi vật chi thuộc về họ đều xuống âm phủ; đất lấp lại và chúng nó bị diệt khỏi hội chúng.
THI THIÊN 55: 15 – Nguyện sự chết thình lình xảy đến chúng nó! Nguyện chúng nó còn sống phải sa xuống âm phủ! Vì sự ác ở nhà chúng nó, tại trong lòng chúng nó.
THI THIÊN 88: 3 – Vì linh hồn tôi đầy dẫy sự hoạn nạn, mạng sống tôi hầu gần âm phủ.
THI THIÊN 89: 48 – Ai là người sống mà sẽ chẳng thấy sự chết? Ai sẽ cứu linh hồn mình khỏi quyền âm phủ?
THI THIÊN 116: 3 – Dây sự chết vương vấn tôi, sự đau đớn âm phủ áp hãm tôi, tôi gặp sự gian truân và sự sầu khổ.
– Hell also means kiling or murdering someone:
CHÂM NGÔN 1: 12 – Chúng ta sẽ nuốt sống chúng nó như âm phủ, và còn nguyên vẹn như kẻ xuống mồ mả.
CHÂM NGÔN 5: 5 – Chân nó xuống chốn chết; Bước nó đụng đến Âm phủ.
– Hell means the place where sinners will be kept until Judgment Day:
PHỤC TRUYỀN 32: 22 – Vì có lửa nổi phừng trong cơn giận ta, Cháy cho đến đáy sâu âm phủ, Thiêu nuốt đất và thổ sản, Cùng cháy đốt nền các núi.
– Those who were sinners will never be out of hell until the second resurrection before Judgment Day:
GIÓP 7: 9 – Mây tan ra và đi mất thể nào, kẻ xuống âm phủ không hề trở lên, cũng thể ấy.
THI THIÊN 9: 17 – Kẻ ác sẽ bị xô xuống âm phủ, và các dân quên Đức Chúa Trời cũng vậy.
THI THIÊN 49: 14-15 – Chúng nó bị định xuống âm phủ như một bầy chiên; Sự chết sẽ chăn giữ chúng nó: Sáng ngày người ngay thẳng sẽ quản hạt chúng nó; Sự đẹp đẽ chúng nó bị tiêu diệt trong âm phủ, hầu cho chúng nó chẳng còn nơi ở nào nữa. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ, vì Ngài sẽ tiếp rước tôi.
Ê-SAI 28: 15 – Vì các ngươi nói rằng: Chúng ta đã kết ước với sự chết, và giao ước cùng nơi Âm phủ. Khi tai nạn hủy diệt trải qua, sẽ chẳng chạm đến ta đâu. Chúng ta lấy sự nói dối là nơi nương náu, sự gian lận làm nơi ẩn mình.
KHẢI HUYỀN 20: 13-14 – Biển đem trả những người chết mình chứa; Sự chết và Âm phủ cũng đem trả những người chết mình có. Mỗi người trong bọn đó bị xử đoán tùy công việc mình làm. Đoạn, Sự chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai.
– People who will be saved will not be put in Hell:
THI THIÊN 16: 10 – Vì Chúa sẽ chẳng bỏ linh hồn tôi trong âm phủ, cũng không để cho người thánh Chúa thấy sự hư nát.
THI THIÊN 86: 13 – Vì sự nhân từ Chúa đối cùng tôi rất lớn, và Chúa đã giải cứu linh hồn tôi khỏi âm phủ sâu hơn hết.
– Hell is a place outside of the Earth:
GIÓP 11: 8 – Sự ấy vốn cao bằng các từng trời: Vậy ông sẽ làm gì? Sâu hơn âm phủ: ông hiểu biết sao đặng?
– Hell is dark:
GIÓP 14: 3 – Ôi! Chớ gì Chúa giấu tôi nơi âm phủ, che khuất tôi cho đến khi cơn giận Chúa đã nguôi, định cho tôi một kỳ hẹn, đoạn nhớ lại tôi!
GIÓP 17: 13-14 – Nếu tôi trông cậy âm phủ làm nhà tôi, nếu tôi đặt giường tôi tại nơi tối tăm.
– Hell is a deepest place:
Ê-SAI 14: 15 – Nhưng ngươi phải xuống nơi Âm phủ, sa vào nơi vực thẳm!
– Hell is big enough that it’s never full
CHÂM NGÔN 27: 20 – Con mắt loài người chẳng hề chán, cũng như Âm phủ và vực sâu không hề đầy vậy.
CHÂM NGÔN 30: 16 – Tức là Âm phủ, người đàn bà son sẻ, đất không no đủ nước, và lửa mà chẳng hề nói: Đủ rồi!
Ê-SAI 5: 14 – Vậy nên sự ham muốn của Âm phủ đã rộng thêm, hả miệng vô ngần, sự vinh hiển nó, dân chúng nó, sự sang trọng nó và kẻ vui mừng giữa nó đều sa xuống đó.
Ê-SAI 14: 9 – Nơi Âm phủ sâu thăm thẳm đã rúng động vì cớ ngươi đặng rước ngươi đến. Nó đã vì ngươi đánh thức các âm hồn, tức là những kẻ cả trên đất; nó đã làm cho vua các nước đứng dậy khỏi ngai mình.
– Hell is a place of hot burning fire:
NHÃ CA 8: 6 – Hãy để tôi như một cái ấn nơi lòng chàng, như một cái ấn trên cánh tay chàng; Vì ái tình mạnh như sự chết, lòng ghen hung dữ như Âm phủ; Sự nóng nó là sự nóng của lửa, thật một ngọn lửa của Đức Giê-hô-va.
– Hell is a place of decay:
Ê-SAI 14: 11 – Sự sang trọng với tiếng đờn cầm của ngươi đều xuống nơi Âm phủ. Một lớp dòi làm nệm cho ngươi, sâu bọ thì làm mền!
– Souls that are kept in hell cannot expect anything happening:
GIÓP 17: 16 – Khi tôi được an nghỉ trong bụi đất, thì sự trông cậy sẽ đi xuống cửa âm phủ.
GIÓP 24: 19 – Sự khô hạn và sự nắng tiêu tan nước tuyết đi; Âm phủ cũng làm như vậy cho những kẻ có tội.
THI THIÊN 6: 5 – Vì trong sự chết chẳng còn nhớ đến Chúa nữa; Nơi âm phủ ai sẽ cảm tạ Chúa?
THI THIÊN 31: 17 – Đức Giê-hô-va ôi! Nguyện tôi không bị hổ thẹn, vì tôi cầu khẩn Ngài. Nguyện kẻ ác phải xấu hổ và nín lặng nơi âm phủ!
TRUYỀN ĐẠO 9: 10 – Mọi việc tay ngươi làm được, hãy làm hết sức mình; vì dưới Âm phủ, là nơi ngươi đi đến, chẳng có việc làm, chẳng có mưu kế, cũng chẳng có tri thức, hay là sự khôn ngoan.
Ê-SAI 28: 18 – Bấy giờ ước các ngươi kết với sự chết sẽ phế đi, ước các ngươi giao cùng nơi Âm phủ sẽ không đứng được. Khi tai nạn hủy diệt trải qua, các ngươi đều bị giày đạp.
Ê-SAI 38: 18 – Nơi Âm phủ chẳng ngợi khen Ngài được, và sự chết chẳng tôn vinh Ngài được; những kẻ đã xuống mồ rồi chẳng còn trông cậy sự thành thật của Ngài nữa.
– Hell cannot be hidden from God but humans cannot see it or know anything about it:
GIÓP 16: 6 – Âm phủ bày lộ ra trước mặt Đức Chúa Trời, và vực sâu không màn che khuất.
GIÓP 38: 17 – Cửa âm phủ há có bày ra trước mặt ngươi chớ? Có thấy các cửa của bóng sự chết chăng?
THI THIÊN 139: 8 – Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó, ví tôi nằm dưới Âm phủ, kìa, Chúa cũng có ở đó.
CHÂM NGÔN 15: 11 – Âm phủ và chốn trầm luân còn ở trước mặt Đức Giê-hô-va thay, phương chi lòng của con cái loài người!
– The Lord Jesus Christ is holding the key of Hell:
KHẢI HUYỀN 1: 18 – là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và Âm phủ.
– A place of crime is called hell:
CHÂM NGÔN 7: 27 – Nhà nàng là con đường của Âm phủ, dẫn xuống các phòng của sự chết.
CHÂM NGÔN 9: 18 – Những người chẳng biết rằng kẻ chết ở đó, và những người khách của nàng đều ở dưới chốn sâu của Âm phủ.
– Heaven and Hell are far away from each other:
CHÂM NGÔN 15: 24 – Con đường sự sống của người khôn ngoan dẫn lên trên, để tránh khỏi Âm phủ ở dưới thấp.
– The word of Hell is used to describe the most hideous crimes:
Ê-SAI 57: 9 – Ngươi đã đem dầu và gia thêm hương liệu dâng cho vua kia; đã sai sứ giả mình đi phương xa; đã hạ mình xuống đến Âm phủ!