SỰ SÁNG TẠO VÀ THUYẾT TIẾN HÓA

Kinh thánh cho biết là Ðức Chúa Trời sáng tạo vũ trụ và trái đất nầy (Sáng thế ký 1: 1) cùng mọi loài sinh vật, trong đó có loài người chúng ta (Sáng thế ký 2: 7). Nhưng các nhà khoa học thì không tin điều ấy. Năm 1859 Charles Darwin cho xuất bản quyển 'On the Origin of Species' (Nguồn gốc các chủng loại) để trình bày về sự tiến hóa của các loài sinh vật trên Trái đất và đặc biệt là về nguồn gốc của con người. Từ đó đến nay giới khoa học đã khám phá thêm nhiều bằng chứng từ các di tích hóa thạch để ủng hộ thêm cho giả thuyết ấy và dùng nó như là vũ khí chính yếu để đả kích niềm tin của Cơ-đốc-nhân nơi Kinh thánh, nhất là đối với chuyện tích sáng tạo được ghi trong sách Sáng thế ký.

Trong khi đó Cơ-đốc-giáo lại không có được sự biện minh chính xác và mạnh mẽ để bênh vực cho niềm tin nơi Kinh thánh. Nếu so với các khám phá khoa học mà người ta có thể kiểm chứng được thì Cơ-đốc-nhân chỉ có lời của Kinh thánh mà thôi. Mặc dầu Cơ-đốc-nhân hết sức bênh vực cho niềm tin của mình nhưng dường như cuộc chiến nầy ngày càng thất thế. Ðiều đó có thể thấy được qua việc xã hội ngày nay cố hết sức chỉ trích sự chân thật của Kinh thánh. Giới khoa học chỉ ra hàng chục điểm mâu thuẫn trong Kinh thánh mà Cơ-đốc-nhân không có cách chi trả lời hoặc biện hộ được, đến nỗi những thế kỷ sau nầy người ta từ chối cho phép Kinh thánh được giảng dạy trong các trường công lập và thay vào đó bằng giả thuyết tiến hóa của Darwin mà nhiều người gọi là học thuyết như để chứng tỏ rằng sự khám phá nầy của khoa học là đúng đắn và chính xác hơn hết.

Những điều trong Kinh thánh mà xã hội ngày nay cho là mâu thuẫn hoặc phản khoa học hay không đúng với các bằng chứng của khảo cổ được liệt kê ra rất nhiều, nhưng trong phạm vi bài viết nầy chúng tôi chỉ đưa ra một vài thí dụ mà thôi, chẳng hạn như:

Khoa học cho rằng loài người xuất phát từ loài vượn người (Hominini/Hominins) và đã có mặt trên Trái đất cách nay khoảng từ bốn đến sáu triệu năm trước, trong khi đó Kinh thánh ghi rằng A-đam là người đầu tiên và sống được 930 năm (Sáng thế ký 5: 5). Nếu cứ tính tuổi của ông cùng các người khác thì A-đam sống cách nay chỉ khoảng 7000 năm mà thôi (theo Thánh Kinh Lược Khảo của Mục sư Henry H. Halley, trang 415)

Mặc dầu nhiều học giả Kinh thánh cố gắng tranh cãi và chỉ ra rằng sự xác định thời gian của khoa học là không chính xác nhưng ai cũng nhận thấy rằng bằng chứng về độ tuổi của các bộ xương hóa thạch cách biệt rất lớn so với thời kỳ của A-đam.

Thêm nữa, qua các khám phá của khảo cổ học thì người ta thấy rằng lịch sữ của nhiều dân tộc trên Trái đất đã có rất lâu trước thời kỳ của A-đam. Người thổ dân châu Úc đã có mặt tại lục địa nầy từ 40,000 năm trước (tức là gấp mười lần lịch sữ của dân tộc Việt Nam chúng ta). Còn đối với người Trung hoa thì khảo cổ học cho biết là họ đã tìm được di tích của những người có mặt đầu tiên tại Trung Nguyên. Các bằng chứng hóa thạch trong một hang động tại Zhoukoudian (gần Bắc kinh) cho thấy người Trung hoa đầu tiên (còn được gọi là Peking man - một loại người tiền sữ) đã sống tại đấy khoảng hơn 13,000 năm trước.

Ðối với các bằng chứng kể trên thì Cơ-đốc-nhân không có cách gì để từ chối, nên nhiều người đành chỉ trả lời là dầu sao thì họ vẫn tin Kinh thánh hơn, nhưng lời nói như vậy không đủ sức thuyết phục người khác và ngay cả chính họ nữa. Ðiều nầy được bày tỏ qua việc Hội thánh và giới học giả Kinh thánh ít khi đề cập về sự sáng tạo đối với người khác. Còn các trường thần học thì cũng không dạy (hoặc chỉ đề cập rất ít) về đề tài nầy. Lâu dần nhiều Cơ-đốc-nhân xem quyển Kinh thánh chỉ là sách giới thiệu về chương trình cứu rỗi linh hồn, thậm chí có người còn xem quyển Kinh thánh như là một loại sách dạy về đạo đức làm người mà thôi, và qua đó gián tiếp hạ thấp giá trị quyển Kinh thánh xuống ngang bằng với các sách vở khác trong trần gian.

Thật ra thì cũng có một số các tổ chức của người Cơ-đốc được thành lập để bênh vực cho chuyện tích sáng tạo trong Kinh thánh. Nhưng phương pháp mà các thành viên của những tổ chức nầy sử dụng để từ chối thuyết tiến hóa là chỉ ra những chỗ còn thiếu sót hoặc những chỗ chưa có đủ bằng chứng thuyết phục trong thuyết ấy. Chẳng hạn như các anh chị em nầy chỉ ra rằng thuyết tiến hóa không giải thích được từ đâu có nguyên bào đầu tiên để rồi từ đấy phát triển thành các dạng sự sống khác nhau, và đi đến kết luận rằng nếu không giải thích được mầm sống đầu tiên thì cả luận thuyết tiến hóa không đáng tin cậy. Nhưng giới khoa học phản ứng lại rằng họ đã có thể giải thích được từ đâu có nguyên bào đầu tiên nhưng chưa xác minh được đầy đủ mà thôi.

Nếu nói về cuộc đấu khẩu giữa giới khoa học và các Cơ-đốc-nhân, nhất là với các học giả Kinh thánh thì không đủ thời gian để nói hết. Vì vậy chúng tôi tạm dừng tại đây để bắt đầu đi vào phần giải thích câu chuyện sáng tạo trong Kinh thánh và giúp cho quý anh chị em thấy rằng Kinh thánh không hề có mâu thuẫn nào hết, những điều được ghi lại trong sách Sáng thế ký là chính xác và các khám phá của khoa học từ trước tới nay chỉ là đang làm công việc minh chứng cho sự chân thật trong lời của Ðức Chúa Trời mà thôi.

Mặc dầu Kinh thánh không phải là sách khoa học nhưng Ðức Chúa Trời đã dùng lời của Ngài để phán truyền cho con người, nhất là các tôi con của Chúa, về những điều cần thiết có tầm quan trọng đối với đức tin của Cơ-đốc-nhân nhằm giúp cho chúng ta theo Chúa một cách xác quyết, không có chút hồ nghi lưỡng lự nào trong đức tin đặt nơi Ngài và nơi Ðức Chúa Jêsus Christ.

Vì muốn giúp cho Cơ-đốc-nhân biết rằng Kinh thánh là quyển sách chân thật ghi lại lời của Ðức Chúa Trời được linh nghiệm qua các thời đại, thì Chúa đã cho ghi lại trong Kinh thánh từ 4000 năm trước những điều liên quan đến khoa học kỷ thuật mà ngày nay chúng ta mới nhận thấy là đúng đắn.

Trước khi khoa học khám phá ra rằng Trái đất là một tinh cầu trong không gian có hình tròn, được bao bọc bằng không khí để bảo vệ bề mặt quả đất và sự sống của các sinh vật thì Ðức Chúa Trời đã cho ghi lại những điều đó trong quyển Kinh thánh, như có chép trong sách Gióp:

(Gióp 26: 7) Chúa trải bắc cực ra trên vùng trống, treo trái đất trong khoảng không không.

Chữ 'vùng trống' trong câu nầy (có nghĩa là không có gì nâng đỡ dưới chân) được Kinh thánh dùng để chỉ ra rằng Bắc cực không phải là một lục địa. Trước thế kỷ thứ 16 các nhà thám hiểm đi đến Bắc cực thì đều cho rằng đây là một lục địa, nhưng sau đó thì người ta mới khám phá ra rằng Bắc cực là biển bị đóng băng, có nghĩa là không có chân nền như những vùng đất khác.

Như vậy chúng ta có thể thấy được sự kỳ diệu trong Kinh thánh khi Chúa bày tỏ điều mà phải đến hơn 2000 năm sau khoa học mới phát hiện, vì sách Gióp được viết ra rất lâu trước thời tiên tri Ê-xê-chi-ên bị bắt đi lưu đầy (khoảng 600 trước khi Ðức Chúa Jêsus giáng sinh) và ông đã ghi lại tên của Gióp khi chép lời phán của Ðức Chúa Trời trong đoạn 14 rằng:

(Ê-xê-chi-ên 14: 14) 'thì dẫu trong đất đó có ba người nầy, là Nô-ê, Đa-ni-ên, và Gióp, cũng chỉ cứu được linh hồn mình bởi sự công bình mình, Chúa Giê-hô-va phán vậy'.

Mặc dầu đã được viết ra từ ngàn xưa, khi đời sống con người còn thô sơ và khoa học chưa phát triển nhưng Kinh thánh cũng đã được Ðức Chúa Trời soi dẫn và đã dùng các trước giả để ghi lại điều mà nhiều thế kỷ sau nầy người ta mới phát hiện và xác nhận rằng lời Kinh thánh là mầu nhiệm. Vì được viết từ rất lâu trước đây nên lời của Kinh thánh có thể khó hiểu đối với đọc giả ngày nay nhưng nội dung và ý nghĩa vẫn bày tỏ cách rõ ràng nếu chúng ta chịu khó suy gẫm và nghiên cứu cách cẩn thận.

Cũng trong đoạn 26 của sách Gióp thì Kinh thánh có ghi lại rằng:

(Gióp 26: 10) Ngài đã vẽ một vòng tròn trên mặt nước, cho đến nơi giới cực của ánh sáng và tối tăm giáp nhau.

Trong câu nầy Kinh thánh mô tả cho người đọc biết rằng Trái đất của chúng ta có hình tròn. Ngày xưa, khi người ta đứng tại bờ biển hoặc đi trên tàu và nhìn ra phía chân trời thì chỉ thấy chân trời là một đường thẳng. Vì vậy mà quan niệm của người xưa cho rằng Trái đất bằng phẳng. Thực tế về hình tròn của Trái đất chỉ được xác minh vào thế kỷ thứ 16 khi hai nhà thám hiểm Ferdinand Magellan và Juan Elcano làm cuộc hải trình vòng quanh thế giới.

Trong đoạn 37 của sách Gióp thì Ðức Chúa Trời cũng đã cho ghi lại trong Kinh thánh về chức năng của bầu khí quyển bao bọc Trái đất rằng:

(Gióp 37: 18) Ông có thế trải bầu trời ra với Đức Chúa Trời chăng? Nó vốn vững chắc như một tấm kính đúc.

Trong câu nầy Kinh thánh cho biết rằng mặc dầu bầu khí quyển trong trẽo không làm cản trở tầm nhìn của con người nhưng lại rất cứng rắn như một vật có hình dạng (giống như tấm kính). Ðây là điều mà trước giả của sách Gióp được Ðức-Thánh-Linh soi sáng để ghi lại mặc dầu vào các thời đại cổ xưa người ta chắc không hiểu được hết ý nghĩa thật sự của các chữ ấy. Nhưng ngày nay thì chúng ta đều biết rằng bầu khí quyển bao bọc Trái đất không những cung cấp dưỡng khí cho con người và các loài sinh vật mà còn có chức năng bảo vệ bề mặt địa cầu khỏi sự bắn phá của các vẩn thạch trong vũ trụ. Khi những tảng đá lớn trong không gian va chạm với bầu khí quyển của Trái đất thì chúng sẽ bị đốt cháy bởi sự cọ sát với tốc độ lớn và nhờ đó mà tan vỡ thành những mảnh vụn nhỏ không gây tác hại nhiều cho sự sống trên quả địa cầu. Ðiều nầy chỉ được khoa học khám phá ra vào khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 mà thôi (hai trong những nhà tiền phong khám phá ra chức năng của bầu khí quyển là ông Léon Teisserenc de Bort (người Pháp) và ông Richard Assmann (người Ðức).

Một điều kỳ diệu khác nữa trong lời Kinh thánh là Ðức Chúa Trời đã báo trước cho chúng ta biết về việc con người sẽ có TV, có vệ tinh trong không gian và nhờ đó có thể xem được trực tiếp những sự kiện xãy ra trên thế giới! Lời nầy do chính Ðức Chúa Jêsus đã phán khi báo trước về ngày tận thế và sự tái lâm của chính Ngài, như có chép trong sách tin lành của sứ đồ Ma-thi-ơ và sách tin lành của Lu-ca:

(Ma-thi-ơ 24: 30) Khi ấy, điềm Con người sẽ hiện ra ở trên trời, mọi dân tộc dưới đất sẽ đấm ngực, và thấy Con người lấy đại quyền đại vinh ngự trên mây trời mà xuống.

(Lu-ca 21: 27) Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con người dùng đại quyền đại vinh mà ngự đến trên đám mây.

Ðiều nầy cũng đã được ghi lại trong sách Khải huyền của sứ đồ Giăng:

(Khải huyền 1: 7) Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cũng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài. Quả thật vậy. A-men!

Trước đây, khi đọc đến lời tiên tri về sự tái lâm của Ðức Chúa Jêsus thì nhiều người thắc mắc hỏi rằng làm sao cả thế giới có thể cùng một lúc nhìn thấy được sự trở lại của Ngài. Vì nếu Chúa tái lâm tại thành Giê-ru-sa-lem theo như lời Kinh thánh (Xa-cha-ri 14: 4) thì làm sao những người ở xa khỏi tầm nhìn, nhất là những dân tộc ở các nơi khác trên thế giới, chẳng hạn như Mỹ châu, Úc châu, có thể nhìn thấy được?

Nhưng ngày hôm nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, khi con người có vệ tinh để phát hình trực tiếp các sự kiện xãy ra trên thế giới (chẳng hạn như khi cả thế giới cùng xem trực tiếp truyền hình các cuộc tranh tài Thế vận hội hoặc các trận đấu của giải Túc cầu thế giới) thì chúng ta mới thấy rằng lời tiên tri nầy là chân thật. Như vậy có nghĩa là trong ngày Chúa tái lâm thì mọi mắt trên trần gian đều có thể thấy sự trở lại của Ngài khi người ta xem TV, hoặc bằng máy vi tính, bằng điện thoại cầm tay và các dụng cụ điện tử truyền hình khác.

Trên đây chỉ là một vài thí dụ cho thấy rằng quyển Kinh thánh rất mầu nhiệm, không những dạy dỗ con người về Ðức Chúa Trời, về tình yêu và chương trình cứu rỗi của Ngài, mà còn tiên báo về những điều sẽ xãy ra trong tương lai có bằng chứng của khoa học và khảo cổ học cặp theo để xác minh cho con người rằng những lời ấy là chân thật.

Chính bởi lẽ đó mà Kinh thánh cũng dạy dỗ cho chúng ta biết về nguồn gốc của con người và cho thấy rằng Kinh thánh không phản khoa học nhưng trái lại chính sự phát triển của khoa học đang làm công tác xác minh rằng những lời đã viết trong Kinh thánh là hoàn toàn đáng tin cậy.

Ðức Chúa Trời là Ðấng biết trước mọi điều. Ngài biết rằng trong thời kỳ sau rốt con người sẽ dùng khoa học để đả kích niềm tin của Cơ-đốc-nhân nên Ngài đã dùng Kinh thánh để củng cố đức tin của những người theo Chúa. Ngài biết rằng giới khoa học sẽ chất vấn con dân Chúa bằng thuyết tiến hóa nên chính Ðức Chúa Jêsus đã giải thích cho chúng ta biết về việc vì sao mà giới khoa học lầm tưởng rằng loài người tiến hóa từ loài khỉ bằng thí dụ về lúa mì và cỏ lùng, vốn được ghi lại trong đoạn thứ 13 của sách tin lành Ma-thi-ơ (còn tiếp)

CÁC CÂU KINH THÁNH ÐÃ TRƯNG DẪN

(Sáng thế ký 1: 1) Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.

(Sáng thế ký 2: 7) Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.

(Sáng thế ký 5: 5) Vậy, A-đam hưởng thọ được chín trăm ba mươi tuổi, rồi qua đời.

(Xa-cha-ri 14: 4) Trong ngày đó, chân Ngài sẽ đứng trên núi ô-li-ve, là núi đối ngang Giê-ru-sa-lem về phía đông; và núi ô-li-ve sẽ bị xé ra chính giữa về phía đông và phía tây, đến nỗi thành ra một trũng rất lớn; phân nửa núi dời qua phương bắc, phân nửa dời qua phương nam.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *